Thứ Tư, tháng 10 30, 2013

Kinh Tế và Chính Trị Indonesia

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 131030

Vấn đề Indonesia khó gấp trăm Việt Nam, lãnh đạo của họ giỏi gấp ngàn! 


000_DV1556419-305.jpg
* Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono nói chuyện với các nhà lãnh đạo APEC 
vào ngày cuối của Thượng đỉnh APEV tại Indonesia hôm 08/10/2013. AFP photo*



Đúng 15 năm trước, do vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á vào các năm 1997-1998, chế độ độc tài của Tổng thống Suharto tại Indonesia bị sụp đổ sau 31 năm gọi là "ổn định". Trong năm năm sau, xứ này đã trải qua nhiều sóng gió cho đến khi xây dựng được nền móng dân chủ và Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono hai lần đắc cử vào các năm 2004 rồi 2009. Vì không thể làm tổng thống quá hai nhiệm kỳ, năm tới, ông ta sẽ mãn nhiệm và người dân bầu lại hai cơ chế Lập pháp và Hành pháp để tiếp tục lãnh đạo một quốc gia đông dân nhất và có nhiều vấn đề nhất trong Hiệp hội 10 Quốc gia Đông Nam Á. Diễn đàn Kinh tế kỳ này sẽ tìm hiểu về những vấn đề ấy qua sự phân tích của chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa, tư vấn kinh tế của đài Á Châu Tự Do.


Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, trong kho tài liệu cũ về bối cảnh từ hơn 15 năm trước, chúng tôi thấy nhiều dữ kiện về Cộng hoà Indonesia tại Đông Nam Á và vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á dẫn tới khủng hoảng chính trị khiến chế độ độc tài Suharto sụp đổ. Ngày nay, xứ này đã có nền móng ổn định trong nền dân chủ, và qua năm tới sẽ có hai cuộc bầu cử Quốc hội rồi Tổng thống để giải quyết nhiều vấn đề sâu xa lâu dài hơn. Xin đề nghị với ông là kỳ này ta sẽ tìm hiểu về Indonesia và những bài toán cải cách của họ để suy ngẫm về trường hợp Việt Nam.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho rằng đây là một việc thiết thực để mở tầm nhìn qua xứ khác. Trong 10 nước của Hiệp hội ASEAN tại Đông Nam Á, Indonesia là quốc gia có nhiều vấn đề nhất, về mọi mặt kinh tế, xã hội, sắc tộc và chính trị. Kinh nghiệm của họ sẽ có ích cho chúng ta.

- Vì là thuộc địa cũ của Âu Châu, Indonesia có nhiều đặc tính bất thường của một quốc gia. Trên đại thể thì ngày xưa, ta gọi xứ này là Nam Dương Quần đảo vì lãnh thổ là một quần đảo gồm 17 ngàn 508 hòn đảo nằm giữa ba mảng kiến tạo địa chất Âu-Á, Úc, và Thái Bình Dương nên có nhiều núi lửa và thường bị động đất cùng sóng thần. Lãnh thổ xứ này nằm ngang hơn 5.000 cây số theo hướng Đông Tây và là nơi sinh sống của 240 triệu người, trong đó có 400 sắc dân nói hơn 700 thổ ngữ hay phương ngữ và có nhiều nhóm võ trang nổi lên đòi quyền tự trị.

- Cho nên việc hội nhập thành một cộng đồng quốc gia cũng là vấn đề. Biểu hiện dễ hiểu của bài toán này là việc phân quyền cho các sắc dân hay các đảo, hoặc tập trung quyền lực vào trung ương ở đảo lớn nhất là Java? Thứ ba, Indonesia có nhiều tài nguyên, nhất là khoáng sản cho công nghiệp, nhưng làm sao khai thác trên một vùng địa dư phân tán và chia sẻ quyền lợi đồng đều cho nơi sản xuất và cho trung ương để còn chu cấp cư dân ở nơi khác? Sau cùng, xứ này cũng có nhiều người theo đạo Hồi nhất thế giới và từng bị khủng bố Hồi giáo tấn công nhiều lần. Nếu nhân danh yêu cầu an ninh mà giữ ách độc tài để kiểm soát tất cả thì làm sao phát triển một xứ nằm giữa ngã tư quốc tế phải thường xuyên trao đổi với thế giới bên ngoài?


Vũ Hoàng: Ông vừa tóm lược vài nét khái quát thì đã thấy nhiều bài toán nan giải gấp bội nếu so với Việt Nam. Vậy mà Indonesia vẫn là cường quốc trụ cột đã lập ra Hiệp hội 10 Quốc gia Đông Nam Á là ASEAN và hình như giàu hơn Việt Nam nếu tính theo lợi tức một đầu người. Trước khi tìm hiểu về chuyện hiện tại và tương lai, theo ông nghĩ thì đâu là lý do chính yếu?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Quả thật là lợi tức đồng niên một đầu người của Indonesia là gần ba nghìn rưởi so với chưa đầy hai nghìn của Việt Nam. Nhiều nhà kinh tế thì cho là xứ này đã sớm trọng dụng các chuyên gia kinh tế tốt nghiệp tại Hoa Kỳ từ nửa thế kỷ về trước nên có nâng cao trình độ quản lý vĩ mô. Tôi trộm nghĩ khác, là sau Thế chiến II lãnh đạo của họ đều khôn ngoan hơn lãnh đạo của Việt Nam trong nỗ lực giành độc lập và tránh cho đất nước khỏi bị chiến tranh!

- Có vài chi tiết cần nhắc lại. Khi Nhật đầu hàng Hoa Kỳ ngày 15 Tháng Tám năm 1945 thì ông Soekarno đang có mặt tại Sàigòn lập tức về Jakarta tuyên bố độc lập vào ngày 17. Họ không bị đảng Cộng sản đảo chính chế độ mới để làm cách mạng vô sản hoặc còn mời thực dân Hà Lan trở về để mượn tay sát hại đối lập. Từ đó ta còn để ý thấy là khi ách độc tài Soekarno lung lay thì ông ta dựa vào đảng Cộng sản Indonesia và còn liên kết với Bắc Kinh để tồn tại nên quân đội tiến hành một vụ phản đảo chánh vào cuối năm 1965. Họ mở ra cuộc tàn sát đảng viên Cộng sản lẫn Hoa kiều khiến nửa triệu người mất mạng, đó là "Vụ Jakarta" khét tiếng.

- Từ đó, chế độ độc tài Suharto mới thành hình, dựa trên quân đội và đảng Golkar. Nhưng khi Suharto bị lật đổ thì họ không có vụ tàn sát nhau để trả thù và dù có bị ra toà về nhiều tội danh khi tại chức, ông Suharto vẫn được dưỡng bệnh và khi tạ thế thì được quân đội chôn cất trọng thể, với sự hiện diện của vị Tổng thống được dân bầu lên, vốn là một tướng lãnh cũ của quân đội. Tôi cho là cách họ cư xử với nhau có giải toả được nhiều mâu thuẫn và là một yếu tố cần thiết cho dân chủ sau này.

 

Bài toán nan giải của Indonesia

000_Hkg9075958-250.jpg
Những người biểu tình chống lại hội nghị thượng đỉnh APEC tại Jakarta vào ngày 08 tháng 10 năm 2013. AFP photo
Vũ Hoàng: Chúng ta trở lại chuyện ngày nay của Indonesia. Thưa ông, đâu là bài toán nan giải nhất của xứ này trong thời gian tới?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Indonesia trải qua một giai đoạn giao thời với ba Tổng thống trong mấy năm trước khi có Hiến pháp mới và bầu cử hẳn hoi kể từ năm 2004. Khi chế độ tập quyền tại Jakarta bị bung thì nguy cơ phân hóa bùng nổ. Thí dụ như việc Đông Timor tuyên bố độc lập hoặc nhiều nhóm dân quân võ trang đòi quyền tự trị và có thể cản trở việc giao lưu buôn bán giữa các đảo và các eo biển. Vì vậy, xứ này áp dụng nguyên tắc tản quyền để tái phân tài nguyên cho địa phương và các đảo thưa thớt dân cư ở vòng ngoài thay vì tập trung vào đảo Java.

- Trung ương tản quyền cho địa phương về nhiều mặt, từ chi thu ngân sách, thuế vụ đến đất đai hay phê duyệt dự án đầu tư và chỉ giữ thẩm quyền về an ninh, quân sự và tư pháp. Nhờ vậy mà họ đẩy lui rủi ro phân hóa và nội chiến trên một nền tảng chính trị dân chủ hơn. Rồi kinh tế phục hồi khi thế giới lại bị nạn Tổng suy trầm vào các năm 2008-2009.

- Ta không quên là xứ này vượt sóng gió chính trị đó khi bị khủng bố tấn công tại Bali vào Tháng 10 năm 2001 rồi đánh bom tự sát tại thủ đô Jakarta vào Tháng Bảy năm 2009, ở giữa là vụ động đất biến ra sóng thần ngày Giáng sinh 2004. Tuy nhiên, từ năm 2011, xứ này đưa ra một Kế hoạch Kinh tế Tổng thể thi hành trong 15 năm tới với tham vọng cải cách và chuyển hướng còn lớn lao hơn việc tản quyền của mươi năm qua.

Vũ Hoàng: Trong kỳ trước, ông nói đến yêu cầu cải cách và chuyển hướng kinh tế và chính trị của Trung Quốc và Việt Nam. Phải chăng Indonesia cũng gặp hoàn cảnh đó và đâu là trọng tâm của Kế hoạch Kinh tế Tổng thể này của họ?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng mọi kế hoạch kinh tế đều phải có nội dung hay giới hạn chính trị vì hai lãnh vực đó tất nhiên là song hành và tác động vào nhau.

- Lãnh đạo Indonesia ý thức được nhược điểm kinh tế trong tình thế chính trị là một nước chủ yếu xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên khai thác từ nhiều địa phương phân tán. Họ muốn cải cách cơ chế kinh tế để trở thành một trung tâm biến chế hàng công nghiệp, nhất là khi Trung Quốc mất dần vị trí là hãng xưởng ráp chế số một của thế giới. Họ muốn tự hiện đại hóa trên cơ sở mạnh hơn. Muốn như vậy, họ phải thứ nhất, điều chỉnh lại chính sách tản quyền đã áp dụng hơn chục năm nay; thứ hai, xây dựng hạ tầng vận chuyển hàng hóa giữa các đảo và giữa quốc gia với thế giới bên ngoài; để, thứ ba, khai thác được tài nguyên khoáng sản với giá trị đóng góp cao hơn thay vì chỉ bán xổi với giá thấp.

- Điều kiện cần thiết cho kế hoạch kinh tế mang tính chất chiến lược này là phải có sự hợp tác về đầu tư giữa tư nhân trong nước với chính quyền và giới đầu tư quốc tế. Suy như vậy thì ta thấy rằng nguyên tắc dân chủ là yếu tố cần thiết, nhưng thật ra vẫn chưa ắt đủ, mà đi vào vận hành thì còn có nhiều bài toán cụ thể sẽ đặt ra. Lý do là khi tản quyền cho các địa phương thì dễ gây ra nạn trùng lập, như nhiều địa phương đều muốn làm cùng một loại dự án, nên gây lãng phí, và nguyên tắc chia chác quyền lợi cũng dễ đưa đến tham nhũng ở địa phương.

- Trong cuộc bầu cử lưỡng viện Quốc hội vào Tháng Tư năm tới, rồi bầu cử Tổng thống vào Tháng Sáu ngay sau đó, những vấn đề nói trên sẽ trở thành đề mục thảo luận hay tranh cãi. Nhưng dù họ chưa thể khắc phục được các trở ngại, thì lãnh đạo của Indonesia đã nhìn ra vấn đề.

Vũ Hoàng: Thưa ông, chuyện ấy dẫn ta trở về trường hợp Việt Nam và kỳ họp hiện nay của Quốc hội hoặc Trung Quốc với kỳ họp tháng tới của Ban Chấp hành Trung ương. Ông kết luận như thế nào về hoàn cảnh của mấy nước Á Châu này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho là mọi nhà cầm quyền đều muốn rộng tay hành động nhưng chế độ độc tài mới thật sự bó tay lãnh đạo, đó là hoàn cảnh của Trung Quốc và Việt Nam. Thứ hai, nhiều người cứ sợ dân chủ sẽ gây bất ổn nên không phát triển được quốc gia. Xứ Indonesia lại  không sợ điều ấy mà vẫn cố gắng thiết lập nền móng dân chủ trong những điều kiện khó khăn nhất do cả thiên nhiên lẫn con người gây ra. So sánh nội dung thảo luận hay tranh luận của họ với những gì đang xảy ra tại Hà Nội thì mình không lạc quan về tương lai của Việt Nam.

- Trong ngắn hạn thì Indonesia còn gặp nhiều khó khăn, như tài nguyên khoáng sản có thể sụt giá trước khi họ xây dựng được nền móng công nghiệp chế biến vững mạnh hơn. Nhưng trong dài hạn thì quốc gia 240 triệu dân này có nhiều ưu thế hơn Việt Nam, với khả năng tiêu thụ nội địa cao hơn, có trình độ tay nghề và năng suất khá hơn và nhất là lãnh đạo của họ có biết sợ dân. Khi Trung Quốc thoái trào trong những năm tới, thì giới đầu tư quốc tế như Mỹ, Nhật, Âu Châu hay Nam Hàn Đài Loan sẽ nhìn vào Indonesia hay Việt Nam? Câu hỏi đó là điều đáng suy nghĩ!

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.


Thứ Ba, tháng 10 29, 2013

Thiên An Môn Bốc Khói



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt Ngày 131028
"Kinh Tế Cũng Là Chính Trị"

Sự biến tại Bắc Kinh hay bài toán cải cách của Trung Quốc?

* Thiên An Môn - Trưa ngày 28, khói bốc trước chân dung Mao Chủ tịch! * 


Trưa mùng ba Tháng 10, giữa cơn sốt chính trị tại thủ đô Hoa Kỳ khi chính quyền liên bang bị tạm đóng cửa một phần, một phụ nữ  dùng xe hơi đòi đột nhập Phủ Tống thống. Khi bị nhân viên bảo vệ ngăn chặn thì nghi can tông xe và chạy qua hướng Quốc hội rồi bị cảnh sát bắn hạ. Nhiều phần thì nạn nhân là người mắc bệnh tâm thần, em nhỏ một tuổi ở trên xe không bị hề hấn gì. Và chúng ta thì quên hẳn tin này. Cho đến giữa ngọ, ngày 28 vừa qua.


Trưa 28, tại Quảng trường Thiên An Môn của thủ đô Bắc Kinh, một chiến SUV bên trong có ba người lái bỗng lao lên vỉa hè đông người và nổ tung rồi bật cháy. Hai khách bộ hành cùng ba nghi can đã tử nạn, 38 người bị thương. Nguồn tin chính thức khá hạn chế về chuyện này cùng bản tin Reuters đã gây ra nhiều câu hỏi hơn là giải đáp.

Quảng trường là nơi được an ninh Trung Quốc kiểm soát cực kỳ nghiêm mật vì là bộ mặt của thủ đô đã từng chứng kiến nhiều cuộc biểu tình đổ máu của sinh viên hay giáo phái Pháp luân công. Việc ba nghi can có mặt trong xe cho thấy đây không phải là hành động của một cá nhân bị bệnh tâm thần, như trường hợp mới xảy ra tại thủ đô Hoa Kỳ. Vì làm người vô can thiệt mạng, vụ này cũng không hẳn là lối tự thiêu để phản kháng của hơn 100 người Tây Tạng từ mấy năm nay.

Cùng lắm, người ta nhớ đến phản ứng của dân Duy Ngô Nhĩ theo Hồi giáo vào năm 2009 khi ba người lao xe lên lề trong khu Vương Phủ Tỉnh đông khách của Bắc Kinh rồi đổ xăng tự thiêu. Từ ít lâu nay, hành động phản đối của sắc dân này đã gia tăng cường độ tại Tân Cương. Nhiều lực lượng xưng danh Thánh Chiến còn khuyến khích dân Hồi giáo dùng xe hơi làm võ khí khủng bố.

Nhưng vì địa điểm Thiên An Môn, và nhất là thời điểm, người ta có thể nghĩ đến một hình thức đấu tranh của những người bất mãn và tuyệt vọng. Thời điểm là Hội nghị kỳ ba của Ban chấp hành Trung ương đảng khóa 18.  Chúng ta trở lại chuyện "kinh tế cũng là chính trị"...

***

Sau những hứa hẹn cải cách của Chủ tịch Tập Cận Bình rồi Thủ tướng Lý Khắc Cường, hôm 26 vừa qua, nhân vật hàng thứ tư của hệ thống quyền bính Trung Quốc (trong Thường vụ Bộ Chính trị bảy người) đã báo trước những thay đổi "chưa từng thấy" từ Hội nghị kỳ ba. Đứng sau Tổng bí thư Tập Cận Bình, Tổng lý Quốc vụ viện Lý Khắc Cường và Chủ tịch Quốc hội Trương Đức Giang, Du Chính Thanh là Chủ tịch cơ chế tư vấn gọi là Chính Hiệp (Hội nghị Hiệp thương Chính trị). Với thế hệ thứ năm vừa lên lãnh đạo sau Đại hội khóa 18 năm ngoái, Hội nghị kỳ ba cũng có ý nghĩa lịch sử như Hội nghị Ban chấp hành kỳ ba của khóa 11 vào Tháng 12 năm 1978.

Sau một cuộc đảo chánh cung đình trên thượng tầng - kéo dài từ khi Mao Trạch Đông tạ thế năm 1976 cho đến khi Đặng Tiểu Bình giành lại quyền lực - Hội nghị kỳ Ba cách nay đúng 35 năm quả là mở ra thời đại mới từ khẩu hiệu "Cải cách và Khai phóng" của họ Đặng. Nhưng giai đoạn huy hoàng ấy đã chấm dứt và Trung Quốc phải khởi sự một cuộc cải cách khác.

Là kẻ đi sau học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước, Trung Quốc có ba thập niên tăng trưởng ngoạn mục qua chiến lược phát triển bằng đầu tư của khu vực công nhờ thu vét tiết kiệm của dân chúng. Và sản xuất dư thừa thì xuất cảng để nhà nước nắm giữ một lượng dự trữ ngoại tệ rất cao. Nhưng mặt trái của chiến lược đó là sự lãng phí, lạm dụng và tham nhũng của khu vực nhà nước, là năng suất tiệm giảm cùng mãi lực của dân chúng. Khi kinh tế toàn cầu bị tổng suy trầm năm 2008, Bắc Kinh vẫn cứ  tống ga nhấn tới để giữ mức tăng trưởng cao và thất nghiệp thấp nên càng thổi bong bóng đầu cơ, sản xuất thừa và chất lên một núi nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.

Vì lấy đầu tư và xuất cảng làm đầu máy tăng trưởng, Trung Quốc bị nhược điểm là có mức tiêu thụ thấp nhất trong các nền kinh tế lớn của thế giới, chỉ 35% Tổng sản lượng GDP so với 57% của Ấn Độ, Brazil, Đức, hay 53% của Nam Hàn, 60% của Nhật Bản.

Chi tiết kinh tế có vẻ chuyên môn này thật ra phản ảnh một điều nghiêm trọng về chính trị: khi sản lượng tăng thì sức tiêu thụ của các hộ gia đình lại giảm, từ 47% GDP vào năm 2000 thì nay chỉ còn 35%. Đó là kết quả của chánh sách trưng thu và bóc lột, với hậu quả là sự bất mãn của quần chúng.

Ngày nay, thế hệ lãnh đạo vừa lên sẽ phải chuyển hướng để nâng mức tiêu thụ nội địa, nhất là ở tại nông thôn để tránh nạn bất công xã hội. Phải đô thị hóa các tỉnh bị khóa trong lục địa để san bằng khác biệt quá lớn giữa các địa phương. Và muốn như vậy cũng phải cải tổ chế độ hộ khẩu, tức là đụng vào một vấn đề nhạy cảm về an ninh.

Những trở ngại cho việc cải cách này xuất phát ngay từ bên trong hệ thống quyền lực: khu vực kinh tế nhà nước và các đảng bộ địa phương đã hưởng đặc quyền và đặc lợi quá lâu nên không muốn nhả cho trung ương tái phân phối phương tiện cho tư nhân và các hộ gia đình. Mà càng trì hoãn cải cách thì các doanh nghiệp loại nhỏ và vừa sẽ theo nhau phá sản, dù là những đơn vị sản xuất có sức tuyển dụng nhân công cao nhất.

Đã thế, bối cảnh quốc tế nay lại không mấy thuận lợi cho việc cải tiến từ lượng qua phẩm và tái phối trí phương tiện cho tiêu thụ nội địa vì các khối kinh tế lớn xưa nay vẫn nhập hàng Trung Quốc, điển hình là Hoa Kỳ, nay cũng phải giảm tiêu thụ và nhập cảng và đẩy mạnh xuất cảng. Chưa kể là khi phải nâng mức tiêu thụ và tăng lương tối thiểu pháp định để dân chúng phần nào được hưởng thành quả của lao động thì kinh tế Trung Quốc càng mất sức cạnh tranh.

Đáng lo ngại nhất khi phải chuyển hướng, Bắc Kinh lại gặp hậu quả quốc tế xuất phát từ chánh sách bành trướng của quá khứ.

Chưa biết là có vượt nổi rào cản trên thượng tầng hay không thì họ đã khiến Nhật Bản ra sức phục hồi cả kinh tế lẫn thế lực ngoại giao và quân sự. Thủ tướng Shinzo Abe không che giấu điều ấy khi nói thẳng rằng Nhật Bản sẽ chặn đà bành trướng lãnh thổ của các nước có tham vọng. Không chỉ nói, Nhật còn mở rộng việc vận động và hỗ trợ các nước Đông Nam Á trước sự đe dọa của Trung Quốc.

Và khi Bắc Kinh phải xoay vào trong, chấp nhận một đà tăng trưởng thấp hơn để chuyển hướng, các nước Đông Nam Á lại có cơ hội trám vào khoảng trống do Trung Quốc để lại. Đấy là trường hợp của Indonesia, Philippines và cả Việt Nam, nếu lãnh đạo Hà Nội muốn ra khỏi bóng rợp của Trung Quốc. Chính quyền Tokyo theo dõi kỹ việc đó và có thể tung tiền yểm trợ để giúp nền kinh tế của các nước này hạn chế dần ảnh hưởng của Bắc Kinh.

Chính là trong khung cảnh đó người ta còn chú ý đến quyết định sắp tới của Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ. Sau khi quyết định ráo riết bơm tiền để kích thích kinh tế, từ năm ngoái là mỗi tháng bơm thêm 85 tỷ đô la theo phương thức QE đợt ba, định chế này có thể giảm dần việc bơm tiền và có khi còn hút lại, nếu kinh tế có dấu hiệu khả quan và thất nghiệp giảm tới mức 6,5%. Chưa biết quyết định này có được áp dụng từ Tháng Ba năm tới hay chăng thì lãnh đạo Bắc Kinh vẫn cứ phải lo. Vì nó sẽ đảo ngược vấn đề và gây thêm khó khăn cho Trung Quốc.

Vụ chiếc xe nổ tung và bốc cháy trên quảng trường Thiên An Môn không chỉ làm rung chuyển bức chân dung của Mao Trạch Đông ở gần đó. Nó còn khiến lãnh đạo Bắc Kinh thêm mất ngủ.

Thứ Tư, tháng 10 23, 2013

Quy Luật của Thịnh Vượng và Khủng Hoảng

Vũ Hoàng & Nguyễn-Xuân Nghĩa, Ngày 131023
Diễn Đàn Kinh Tế RFA 

Đồng tiến là thịnh vượng, trưng thu là khủng hoảng

000_Hkg8602379-305.jpg
* Kỳ họp Quốc hội hôm 20/05/2013 tại Hà Nội. AFP* 
 

Khi Quốc hội Việt Nam bắt đầu một kỳ họp được coi là quan trọng về cải tổ chính sách thì đảng Cộng sản Trung Quốc chuẩn bị một kỳ họp còn chiến lược hơn về cải cách. Đặt trong bối cảnh chung của những nan đề khó giải, đâu là cái hướng cải cách của hai nền kinh tế này? Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Thẩm quyền vẫn thuộc về đảng

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông trong cả một tháng sắp tới kể từ Thứ Hai, Quốc hội khóa 13 của Việt Nam có kỳ họp thứ sáu để thảo luận và quyết định về nhiều bước cải tổ chính sách trong bối cảnh kinh tế gặp tốc độ tăng trưởng thấp nhất kể từ 13 năm nay. Cùng lúc đó, theo dõi tình hình Trung Quốc từ lâu, ông cũng biết lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Hoa đang chuẩn bị một kỳ họp chiến lược của Ban chấp hành Trung ương vào tháng tới. Vì vậy, chương trình chuyên đề của chúng ta sẽ tìm hiểu về việc họp hành và cải cách của hai nền kinh tế này. Xin ông trình bày cho thính giả của chúng ta nắm rõ bối cảnh.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Về nghị trình thì quả là lần này Quốc hội Việt Nam có một kỳ họp đầy trọng lượng so với những kỳ trước vì phải thông qua việc cải tổ bản Hiến pháp hay Luật Đất đai, thảo luận về tái cơ cấu kinh tế, hay về những chỉ tiêu trong năm, v.v... Tuy nhiên, dù không nói về khả năng tổ chức để các đại biểu có thể nắm vững hồ sơ và nêu ra những vấn đề thật và đáng quan ngại, thì cơ chế Quốc hội này vẫn không có thẩm quyền đưa ra những thay đổi cần thiết cho nền kinh tế và cả tương lai đất nước. Thẩm quyền ấy vẫn thuộc về đảng Cộng sản Việt Nam.

Cơ chế Quốc hội này vẫn không có thẩm quyền đưa ra những thay đổi cần thiết cho nền kinh tế và cả tương lai đất nước. Thẩm quyền ấy vẫn thuộc về đảng Cộng sản Việt Nam. Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
- Trong ý đó thì lãnh đạo đảng nên chú ý đến kỳ họp Tháng 11 của đảng Cộng sản Trung Hoa. Lý do là Ban chấp hành Trung ương khóa 18 của đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ có Hội nghị kỳ ba để đưa ra những thay đổi cũng quan trọng như Hội nghị kỳ ba khóa 13 vào cuối năm 1978 khi Đặng Tiểu Bình quyết định chuyển hướng qua khẩu hiệu "cải cách và khai phóng". Việc cải cách đó mở ra 30 năm tăng trưởng kể từ 1979 và cũng phần nào là mẫu mực mà lãnh đạo Việt Nam đã tiếp thu sau khi đổi mới thật từ năm 1991. Bây giờ, mẫu mực Trung Quốc đã thành lỗi thời khiến lãnh đạo tại Bắc Kinh muốn đổi thì Hà Nội cần tìm hiểu để kịp thời cải sửa ngay từ căn bản.

Vũ Hoàng: Có phải ông đánh giá Hội nghị kỳ ba tới đây của đảng Cộng sản Trung Quốc là một bước ngoặt mà đảng Cộng sản Việt Nam nên chú ý?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho là Hà Nội nên chú ý và sớm chuyển hướng, vì việc ấy tương đối còn dễ hơn những gì mà lãnh đạo Bắc Kinh phải giải quyết. Muốn như vậy, mình ta nên mở rộng tầm nhìn về những quy luật có thể đem lại thịnh vượng thì sẽ hiểu ra vì sao mà Trung Quốc phải đổi để thoát cơn khủng hoảng. Nói cách khác, nếu nhìn thấy vết xe đổ của xứ láng giềng này thì ta có thể tránh được tai họa cho quốc gia và dân tộc.

Vũ Hoàng: Như vậy, chúng ta sẽ tìm hiểu về yêu cầu chuyển hướng của Trung Quốc trong khuôn khổ của những quy luật có thể đem lại sự thịnh vượng cho quốc gia. Xin ông bắt đầu.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin được tóm lược như thế này.

- Sau 30 năm áp dụng chiến lược ráo riết đầu tư để đạt mức tăng trưởng cao bằng mọi giá, lãnh đạo Trung Quốc đã thấy cái giá phải trả là quá nặng nên muốn cải cách. Nhưng giữa lúc đó thì vụ Tổng suy trầm toàn cầu bùng nổ vào năm 2008 nên họ vẫn cứ nhấn tới theo hướng cũ và gặp nhiều khó khăn hơn. Sau Đại hội 18 vào năm ngoái, thế hệ lãnh đạo mới đã rà soát tình hình và cố chuyển hướng trong những điều kiện còn nan giải và bất ổn hơn. Hội nghị kỳ ba vào tháng tới sẽ cân nhắc chuyện này. Đó là về bối cảnh chính trị của họ.

- Về thực chất kinh tế, chiến lược của Trung Quốc là vắt sức dân qua chính sách đè nén, thậm chí bóc lột tài chính, để huy động tiết kiệm của dân chúng đưa vào đầu tư sản xuất. Bóc lột tài chính vì trả lãi suất và tỷ giá ngoại hối thấp, lương ít và còn hạn chế quyền sinh sống và cư trú của người dân qua chính sách hộ khẩu để thu vét phương tiện quá rẻ cho sản xuất. Vì sự lệch lạc về phí tổn, nôm na là giá cả ở đầu vào thấp, sản phẩm dư thừa ở đầu ra được ào ạt xuất khẩu với giá bèo làm thế giới khâm phục, nhưng lại tích lũy nhiều thất quân bình nguy hiểm. 

- Thứ nhất là phương tiện quá rẻ trưng thu của người dân đánh sụt mức tiêu thụ của thị trường nội địa. Thứ hai là chúng lại trút vào khu vực kinh tế nhà nước kém hiệu năng nên chỉ làm giàu cho thiểu số có chức có quyền và gây bất công xã hội. Thứ ba là tình trạng kém hiệu năng gây lãng phí, dẫn đến nạn đi vay quá sức, sản xuất thừa và bong bóng đầu cơ. Lồng trong ngần ấy nhược điểm là các vấn đề xã hội mà trung ương không kiểm soát nổi, như nạn ô nhiễm môi sinh và tình trạng đô thị hóa và công nghiệp hóa trong hỗn loạn. Bây giờ thì đà tăng trưởng ấy đã sụt.

- Kết cuộc thì dù tự xưng là "xã hội chủ nghĩa", chiến lược của Trung Quốc vẫn tập trung tiền tài và quyền lực cho một thiểu số nên đi ngược quy luật của sự thịnh vượng.

 

Phát triển đồng tiến

 

Vũ Hoàng: Ông vừa tóm lược một số vấn đề mà chính Việt Nam cũng đang gặp và muốn cải sửa, như khu vực kinh tế nhà nước kém hiệu năng, gánh nợ xấu của ngân hàng, tình trạng bất công xã hội và ô nhiễm môi trường sinh sống trong đà tăng trưởng đang giảm sút. Nhưng khi ông nói đến "quy luật của sự thịnh vượng" thì đấy là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tất cả các nước đi sau, có nền kinh tế gọi là "đang phát triển" - như Trung Quốc, Việt Nam hay cả trăm xứ khác - đều có thể học từ các nước công nghiệp hóa những kiến năng về công nghệ hay tổ chức sản xuất để thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Trong hạ bán thế kỷ 20, các nước này đều đã trước sau nâng cao mức sống của người dân so với quá khứ phải nói là chậm tiến và nghèo khổ. Nhưng dù có lợi thế đi sau nên học được nhiều điều gần như miễn phí từ các nước đi trước, không phải xứ nào cũng trở thành quốc gia thịnh vượng, cụ thể là có lợi tức bình quân một đầu người ở khoảng ba vạn Mỹ kim một năm. Có lẽ thế giới chỉ có ba trường hợp thành công là Đài Loan, Nam Hàn và xứ Chile tại Mỹ châu La tinh.

Vũ Hoàng: Thưa ông vì sao như vậy?

Cụ thể là trong đà tăng trưởng kinh tế, mọi thành phần đều góp sức và hưởng lợi tức một cách đồng đều. Nhờ vậy mà mọi người đều gắng sức nên kinh tế và xã hội mới phát triển một cách bền vững. Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lý do không phải là địa dư hay nguồn tài nguyên dồi dào dưới lòng đất, vì thật ra ba nước kể trên đều có bất lợi và không giàu tài nguyên mà chỉ trong mấy chục năm đã lọt vào hạng giàu có. Lý do là họ biết áp dụng quy luật của thịnh vượng mà tôi xin gọi là "phát triển đồng tiến". Cụ thể là trong đà tăng trưởng kinh tế, mọi thành phần đều góp sức và hưởng lợi tức một cách đồng đều. Nhờ vậy mà mọi người đều gắng sức nên kinh tế và xã hội mới phát triển một cách bền vững.

Vũ Hoàng: Ông vừa trình bày một khái niệm hay phạm trù mà nhiều thính giả của chúng ta có thể thấy là trừu tượng vì vậy xin ông giải thích thêm cho rõ ràng.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta để ý thấy là Đài Loan, Nam Hàn và Chile đã từng có chế độ độc tài của phe thủ cựu cánh hữu. Họ không nêu ra khẩu hiệu lý tưởng gọi là xã hội chủ nghĩa của cánh tả, nhưng đã tự ý cải cách về chính trị để áp dụng một chế độ dân chủ. Việc cải tổ đó khiến cho thiểu số ở trên không còn khả năng trưng thu hay đè nén hay bóc lột đa số ở dưới.

- Chẳng những vậy, chế độ chính trị của họ còn xây dựng các định chế cần thiết cho phát triển, như quyền tự do kinh tế, quyền sở hữu của tư nhân, như hệ thống luật lệ minh bạch với quyền tư pháp độc lập, hay quyền đàn hặc phê bình lãnh đạo. Nôm na là tư nhân có quyền mà nhà nước phải tôn trọng và phải bảo vệ vì tay chân nhà nước chỉ là công cụ nhất thời của người dân.

- Đa số quốc gia kia lại chẳng được như vậy vì thiểu số ở trên áp dụng chiến lược trưng thu và cưỡng bách nên sau giai đoạn cất cánh tăng trưởng có vẻ ngoạn mục là họ đụng trần và không nâng được lợi tức người dân quá mức trung bình. Họ rơi vào tình trạng gọi là "cái bẫy của lợi tức trung bình" mà không thoát ra được. Trung Quốc đang lọt vào cái bẫy đó, Việt Nam cũng vậy.

- Trong một thế giới toàn cầu hóa với thông tin mở rộng, khi lãnh đạo lại đưa người dân vào bẫy vì "chiến lược trưng thu" thay vì "chiến lược đồng tiến" thì khủng hoảng rất dễ xảy ra như chúng ta đã thấy tại nhiều quốc gia.

Vũ Hoàng: Sau khi đặt vấn đề như vậy rồi thì ông liên hệ thế nào đến những yêu cầu cải cách mà lãnh đạo của Trung Quốc và Việt Nam đang muốn tiến hành?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin nêu ra những ví dụ cụ thể đang làm giới lãnh đạo hai xứ này đau đầu và muốn sửa từ lâu nhưng cứ dậm chân tại chỗ.

- Thứ nhất, vì sao khu vực kinh tế nhà nước lại giữ vai trò chủ đạo? Đấy là hệ quả của chiến lược trưng thu vì vơ vét tài nguyên quốc dân dồn cho tập đoàn kinh tế nhà nước, thậm chí cho các chính quyền địa phương như tại Trung Quốc. Tài nguyên đó là tiết kiệm, tín dụng và đất đai. Chiến lược ấy bất công và bất ổn vì làm giàu cho thiểu số và gây thất quân bình vĩ mô.

- Thứ hai, vì sao các dự án đầu tư và tín dụng của khu vực công lại gây bội chi ngân sách và chất lên một núi nợ xấu sẽ đổ lên đầu cả nước? Vì chiến lược trưng thu đã ép sức tiết kiệm của dân và tạo ra nguồn tiền quá rẻ cho các tập đoàn nhà nước và tay chân tự tiện sử dụng vì lợi ích riêng. Cũng do chiến lược này ta mới thấy các tập đoàn kinh tế nhà nước đi vay bừa phứa mà khỏi cần nghĩ đến cách trả nợ.

- Thứ ba, vì sao một tài nguyên chung của cả nước là đất đai lại do một thiểu số quyết định đằng sau khẩu hiệu hay điều luật là "do nhà nước thống nhất quản lý"? Vì chiến lược trưng thu đã đoạt quyền tư hữu một phương tiện sản xuất quan trọng là đất đai để tay chân của đảng và nhà nước có thể lũng đoạn, hay thậm chí đánh bạc, trong các dự án kinh tế kém hiệu năng của họ. Được thì họ lấy mà thua thì dân chịu.

- Căn bản nhất vì cũng là lý do giải thích những bất công và phi lý ấy là vai trò độc quyền của đảng và công cụ của đảng là nhà nước và tay chân của đảng là các đại gia thân tộc. Họ trở thành thiểu số tư bản đỏ, nhân danh xã hội chủ nghĩa mà xây dựng chế độ tư bản nhà nước trên đầu cả nước và cản trở mọi nỗ lực cải cách. Khi kinh tế phát đạt thì họ đánh bạc làm giàu trên thị trường cổ phiếu và địa ốc, khi kinh tế suy trầm thì họ tẩu tán tài sản và tư doanh theo nhau phá sản.

Vũ Hoàng: Như vậy thì ông cho rằng Việt Nam nên cải cách từ đâu?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ đến một quy luật chung là nhiều chế độ thành hình nhờ khẩu hiệu đấu tranh cho công bằng xã hội mà sau đó lại tạo ra bất công và làm kinh tế không phát triển được. Việt Nam cũng bị tệ nạn phổ biến này và còn gặp một tai họa khác là chế độ đã xưng danh là đấu tranh cho độc lập với xương máu của người dân mà đang mất độc lập với Trung Quốc.

- Về chuyện trước mắt thì việc Quốc hội họp hành là "có còn hơn không", nhưng vấn đề rốt ráo không nằm ở đó, như người ta có thể thấy trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Vấn đề là hệ thống chính trị và vai trò của đảng độc quyền.

- Thật ra, bên cạnh một Trung Quốc đang xoay trở để chuyển hướng mà vẫn cố bảo vệ chế độ toàn trị của đảng thì Việt Nam có cơ hội vượt thoát nếu dám cải cách mạnh dạn hơn và sớm sủa hơn. Cải cách từ hệ thống chính trị ở trên cho dân chủ hơn xuống chiến lược kinh tế ở dưới cho dân chúng được tự do hơn. Việc cải cách đó mới thực sự dẫn tới phát triển và đưa Việt Nam ra khỏi vòng ngoại thuộc.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.

________________________

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này

Thứ Ba, tháng 10 22, 2013

Ưu Thế Đáng Ghét



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt Ngày 131021
"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài"

Và Trách Nhiệm Đáng Sợ Của Hoa Kỳ

* Chú Sam lại đá nợ ra biên - Hý họa của Michal Ramirez - báo IBD *


Trận đánh về ngân sách Hoa Kỳ vừa tạm hưu chiến cho đến đầu năm tới. Thế giới thở phào vài tháng rồi lại thấy nhức tim hay khó chịu về chuyện bên trong nước Mỹ. Đấy là lúc ta sẽ lại nhìn Hoa Kỳ, từ bên ngoài, theo giác độ của thiên hạ. May ra thì hiểu vì sao thế giới thấy Hoa Kỳ đáng ghét, đáng sợ, hoặc cả hai....

Trước hết, khi đệ nhất siêu cường kinh tế toàn cầu đang tung hứng một trái lựu đạn mà người ta cho là có thể nổ bất cứ lúc nào – bị nguy cơ "vỡ nợ" – thì nền kinh tế hạng nhì là Trung Quốc đã phản ứng. Ban đầu, chỉ là quan điểm "bán chính thức" của một bình luận gia trên Tân Hoa Xã ngày Chủ Nhật 13 về nhu cầu xây dựng một thế giới không còn vị trí thống trị của nước Mỹ và đồng Mỹ kim (chuyện "Phi Mỹ Hoá" – de-Americanization). Sau đó là lời phát biểu chính thức hơn của Bộ Thương Mại Trung Quốc vào Thứ Năm 17, ngay trước khi Quốc hội Mỹ hưu chiến. Rằng việc Hoa Kỳ vi ước – default, không tôn trọng được cam kết tài chánh của mình, chưa hẳn là vỡ nợ insolvent – có thể gieo họa cho sự phục hồi của kinh tế toàn cầu. 

Như đa số dư luận, quốc gia chủ nợ số một đã đả kích thái độ khó lường của Mỹ trong giai đoạn bất trắc hiện nay của kinh tế toàn cầu, nhưng Bắc Kinh chú trọng nhiều hơn đến hậu quả là có thể đánh sụt khả năng xuất cảng của mình. Đấy là cơ hội cho chúng ta tìm hiểu vì sao những tính toán cục bộ của nước Mỹ - như chuyện tranh cử 2014 - lại gây họa cho thiên hạ. 

Nói cách khác, khi cử tri Mỹ bỏ phiếu, họ có quan tâm đến hậu quả quốc tế mà đại diện dân cử của họ ở cấp liên bang có thể gây ra hay chăng?


***

Không đợi tới khi Trung Quốc "cải cách và khai phóng", trước đó cả chục năm, Tổng trưởng Tài chánh Pháp Valérie Giscard d' Estaing (sau này là Tổng thống) đã than về "lợi thế kinh khủng" (privilège exhorbitant) của Hoa Kỳ với đồng Mỹ kim là ngoại tệ dự trữ của thế giới. Giscard d'Estaing than vãn như vậy trước khi Tổng thống Richard Nixon chặt neo và thả nổi đồng đô la từ Tháng Tám năm 1971. Từ đó, Mỹ kim còn tung hoành thô bạo hơn!

Khi tiền Mỹ là phương tiện giao hoán phổ biến, các đệ tam nhân, giả dụ như Indonesia hay Argentina, mà mua bán với nhau đều phải thanh toán bằng đô la xanh. Nhà nhập cảng của xứ này phải tìm ngân hàng, trả hoa hồng để mua đô la bằng đồng nội tệ rồi dùng đô la thanh toán tiền mua hàng của xứ kia. Và nhà xuất cảng nhận đô la có thể phải đổi ra đồng bạc của mình để giải quyết nhu cầu sản xuất ở nhà. Từng bước tốn kém đó là loại "ẩn phí" mà họ phải trả, nhưng chẳng là vấn đề của các doanh nghiệp xuất nhập cảng Hoa Kỳ. Ngay cả dân Mỹ khi là du khách muôn phương cũng chẳng ý thức được lợi thế của họ, khi tới Bueno Aires, Paris hay Jakarta cứ hồn nhiên cà thẻ tín dụng và thanh toán mọi chi tiêu bằng đô la Mỹ. 

Chúng ta gặp nghịch lý là 1) tiền Mỹ thì ai cũng thích, 2) mà dân Mỹ có khi bị ghét. Nhưng đa số người dân xứ này lại không biết, và thật ra họ còn bị ghét oan vì vị trí ưu đãi của Mỹ kim cũng có bất lợi. Trong một bài "kinh tế cũng là chính trị", ta sẽ trở lại chuyện chuyên môn phức tạp này. Ở đây, xin chỉ nói về "Hoa Kỳ nhìn từ bên ngoài", nhưng từ một giác độ khác.


***

Mâu thuẫn về ngân sách vừa qua tại Hoa Kỳ chỉ là một vụ xung đột nhỏ trong một trận đánh của cả một cuộc chiến rộng lớn về triết lý chính trị. Nhìn từ bên ngoài, ta nên thấy ra nhiều cấp khác nhau, từ nhỏ đến lớn và từ đoản kỳ một năm tới trường kỳ của nhiều năm và nhiều cuộc bầu cử. 

Một phe thiểu số trong đảng Cộng Hoà – thuộc phong trào Tea Party theo xu hướng "libertarian' với chủ trương tự do tuyệt đối và thu hẹp vai trò của chính quyền đến tối thiểu – đã nhân cuộc tranh luận hàng năm về ngân sách và mức công trái tối đa mà gài vào những điều kiện nhằm tê liệt hóa hoặc ít ra giới hạn phạm vi áp dụng của đạo luật y tế Obamacare. 

Đạo luật được biểu quyết và ban hành từ gần bốn năm trước – với nhiều sửa đổi tự tiện và mờ ám của Chính quyền Obama – nhưng đã là luật và không thể thu hồi hay đảo ngược nếu Cộng Hoà không kiểm soát được cả Hành pháp lẫn lưỡng viện Quốc hội. Dù sao mặc lòng, phe thiểu số đòi khai chiến và đánh tới cùng vì lý do thuộc phạm vi ý thức hệ: giảm thiểu vai trò nhà nước. 

Một định nghĩa khác của ý thức hệ: dù có gây tổn thất, bị thất cử hay khủng hoảng chẳng hạn, thì vẫn phải làm! Ta dễ hiểu ra điều ấy khi nhớ đến ý thức hệ cộng sản....

Ngược lại, phe Dân Chủ cũng là nạn nhân của ý thức hệ từ phía cực tả khi chủ trương tăng chi, phát huy quyền phá thai và hôn thú đồng tính, bảo vệ môi sinh bằng mọi giá, hoặc tranh thủ hậu thuẫn của thiểu số da màu, giải toả chế độ di dân, v.v....  Ít ai chú ý là phe cực tả về xã hội với chủ trương phóng túng, như phá thai, đồng tính hoặc tự do trồng cần sa, lại rất gần với xu hướng "libertarian" - và cũng cực đoan chẳng kém đám Tea Party!

Sau khi thất bại – mà thất bại là tất yếu vì kém phiếu lẫn cách tuyên truyền – phe Cộng Hoà sẽ lui về cãi nhau và đổ lỗi, với sự phụ họa của truyền thông, đa số thiên tả. Nhưng trên đà thắng lợi, phe Dân Chủ sẽ lại rơi vào tranh luận nội bộ về những đề mục sinh tử khác. 

Tăng chi và tăng thuế đến mức nào khi gánh nợ thật của nước Mỹ đang đe dọa các thế hệ về sau? Làm sao giới hạn các mục chi "chính đáng", entitlements, trong ngân sách để hạn chế sự bùng nổ và vỡ nợ tất yếu của khối công trái 17 ngàn tỷ và những cam kết chắc chắn là sẽ vi ước của quỹ An sinh Xã hội hay Y tế?

Chúng ta đang chứng kiến một sự lạ, là hai nhóm thiểu số của hai đảng đã hướng dẫn cả nước vào loại mâu thuẫn khó hòa giải. Đảng Cộng Hoà không còn sự hiện hữu của xu hướng ôn hòa thậm chí thiên tả ở vùng Đông Bắc như Jacob Javits hay Nelson Rockefeller. Bên Dân Chủ cũng chẳng còn các tay "bảo thủ" về đối ngoại như Henry "Scoop" Jackson, Sam Nunn hay Joe Lieberman, hoặc ôn hòa về kinh tế như John Kennedy hay Bill Clinton.

Cả hai thiểu số này chỉ nhìn thấy ngọn cây trước mặt mà quên cánh từng phía sau, và họ dễ tái đắc cử nhờ lá phiếu của loại cử tri tích cực ở nhà. Khi tái đắc cử, lá phiếu của họ gây chấn động cho toàn cầu qua bộ phận chuyển lực là thị trường tài chánh, qua lãi suất trái phiếu hay hối suất đồng bạc. Nhưng cả cử tri lẫn đại biểu của họ đều bất cần!

Kết cục thì Hoa Kỳ không có ý thức đế quốc, ít ra về kinh tế, nhưng sự yếu kém của đồng Euro, đồng Yen Nhật hay đồng Anh kim, v.v... vì thực lực kinh tế của các xứ đó, vẫn khiến dân Mỹ có ảnh hưởng quá lớn với thế giới mà lại không biết và cũng chẳng cần biết.

Vì vậy họ mới ngạc nhiên vì sao thế giới có vẻ chống Mỹ.
______________________

Chỉ có tại nước Mỹ

   Tác phẩm quái đản của Johnnie Mullins, để dọa con nít

Mùa Halloween là khi dân Mỹ phát huy trí tuệ để gây sợ hãi cho mọi người. Giải nhất năm nay coí thể về tay Johnnie Mullins của Oklahoma, khi anh úp mặt một cái xác giả ngay ở cửa nhà xe, đầu bị bánh xe cán nát ngướu, máu chảy thành dòng ra ngoài. Lối xóm than phiền và có người gọi điện thoại cấp cứu 9-11 vì tưởng rằng nhà này có tai nạn. Cảnh sát đến hiện trường và ra về: vô thẩm quyền vì đấy là quyền tự do của gia chủ! Hãi thật.

Thứ Sáu, tháng 10 18, 2013

Văng Miểng Vào... Mắt Kiếng


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 131017

Một trong những tổn thất của trận đấu về ngân sách là viễn kiến của nước Mỹ

 * Người sáng mắt Andrew Marshall - Giám đốc ONA * 


Sau khi Thượng rồi Hạ viện Hoa Kỳ nhồi banh đến ngày cuối, vào phút chót thì đôi bên cùng đá trái banh ngân sách ra biên, cho tới đầu năm sau: Chính quyền liên bang có ngân sách tới giữa Tháng Giêng và định mức đi vay được nâng cho tới mùng bảy Tháng Hai. Tức là sau Giáng Sinh, hai phe sẽ lại cù cưa đá tiếp. Cho đến cú đá phạt, penalty, vào cuộc bầu cử 2014.

Từ nay đến đó, các nhà bình luận lại điểm quân đếm phiếu và luận về lẽ thắng bại của hai đảng để tác động vào bầu cử theo quan điểm của họ. Truyền thông của ta thì hồn nhiên dịch lại và đưa lên trang nhất như tin tức, như chân lý. Người viết xin đi qua chuyện khác.

Chuyện xưa và chuyện sau....


***

Chuyện xưa là 60 năm trước, vào năm 1942.

Trong Thế chiến II, quân Nhật tiến vào Đông Nam Á và từ Thái Lan Miến Điện cắt đường tiếp vận của quân Đồng minh cho Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Khi ấy, có người trình lên lãnh đạo Mỹ một ngả khác đi vào Trung Quốc. Đó là qua Tây Tạng.

Khốn nỗi, sự hiểu biết của nước Mỹ về đỉnh tuyết này chỉ là kiến thức từ hồi đấu thế kỷ của Đế quốc Anh. Và trong bộ máy quân sự của Mỹ, bản đồ Tây Tạng cũng trắng như tuyết.

Đấy là lúc cơ quan OSS, tiền thân của CIA, mới có sáng kiến đưa người vào tiếp xúc với lãnh đạo Tây Tạng, một cậu bé được coi như "Phật Sống", để xin mượn đường tiếp vận. Cậu bé đó là đức Đạt Lai Lạt Ma ngày nay. Hai người được gửi vào là một học giả tốt nghiệp Princeton và một sĩ quan uyên bác, cháu nội của văn hào Lev Tolstoy.
Họ vượt núi tuyết tới thủ đô Lhasa, gặp đức Đạt Lai Lạt Ma và được Hội đồng Nội các gọi là Kashag đón tiếp tử tế. Nhưng vì họ chẳng có tư cách ngoại giao nên chưa thể đạt thoả thuận gì. Cũng lại chuyện Bùi Viện cầu viện của ta. Khi trở về, phúc trình của phái bộ phiêu lưu này được thượng cấp đưa lên Tổng thống F. D. Roosevelt.

Và bị xối nước còn lạnh hơn tuyết giá Hy Mã Lạp Sơn.

Với giọng trịch thượng của kẻ không hiểu biết gì về các nền văn hóa khác, Rossevelt châm biếm chữ lạ, sánh Kashag với một truyện thời thượng khi đó tại Mỹ là bài thơ về con bò tím. Và phất tay cho nước lã ra sông. Chuyện buồn không đoạn kết.

Hoặc đoạn kết còn tục hơn vậy. Sau này cơ quan CIA có yểm trợ Tây Tạng, nhưng từ "chiến khu" lập ra ở đỉnh tuyết Colorado, bên Mỹ. Kết cuộc là Tây Tạng không thoát vòng Hán hóa mà lãnh đạo còn bị Bắc Kinh gán tội là tay sai của CIA. Chuyện đã nhàm vì còn thấy ở Việt Nam. Người viết đã kể lại chuyện này trong một số Xuân Việt Báo năm xưa, khi nhắc đến Tây Tạng và đức Đạt Lai Lạt Ma.

Từ chuyện xa xôi đó, sau này, chúng ta mới thông cảm với lời than của một viên tướng Hoa Kỳ: "Mỗi khi ra quân, chúng ta luôn luôn lầm bản đồ và ngôn ngữ". Nôm na là thiếu hiểu biết về nhiều yếu tố chi phối quyết định của lãnh đạo xứ khác, như địa dư, lịch sử và văn hoá.... Vì thế mới dễ quàng xiên.

Ba chục năm sau trò ngu của Roosevelt và việc Hoa Kỳ hy sinh nhiều đồng minh Âu-Á vì thiếu viễn kiến và hiểu biết mà lại thừa mưu lược, Tổng thống Richard Nixon có một quyết định lạ vào năm 1973. Khi chuyện Việt Nam đã thành nước lã ra sông và tiền đồn sắp trôi xuống biển, mà người Việt mình chưa biết, Nixon muốn có một cơ quan khả dĩ gọi là "Viễn vọng đài", để đẩy tầm nhìn tới thật xa.

Nixon cho Ngũ Giác Đài lập ra Văn phòng Thẩm lượng Office of Net Assessment với nhiệm vụ tự bịt tai để khỏi bị nhiễu âm của thời sự trước mắt mà nhìn vào tương lai. Người phụ trách việc thành lập là Tổng trưởng Quốc phòng James Schlesinger, một tiến sĩ kinh tế, sau là học giả, rồi phụ trách về ngân sách, làm Tổng trưởng Quốc phòng cho hai đời tổng thống Nixon và Gerald Ford rồi Tổng trưởng Năng lượng cho Jimmy Carter.

Một học giả khác - bạn đồng viện của James Schesinger và nhà vị lai học khét tiếng Herman Kahn - là Andrew Marshall được chỉ định làm Giám đốc văn phòng ONA, với trách nhiệm khi ấy là vận dụng trí tuệ của các chuyên gia để lượng định về hồ sơ hạch tâm với Liên Xô và vạch ra chiến lược quân sự cho tương lai.

Từ 1973 cho đến nay, bảy đời Tổng thống đều tái bổ nhiệm ông Marshall vào chức vụ này.

Andrew Marshall sinh năm 1921, tốt nghiệp Kinh tế học từ Đại học Chicago, là chiến lược gia của nhiều thế hệ. Ông cũng là thượng cấp đã cất nhắc những người sau này sẽ phụ trách an ninh và đối ngoại của Hoa Kỳ trong mấy thập niên, như Nguyên Tổng trưởng Quốc phòng (rồi Phó Tổng thống) Dick Cheney, hay Tổng trưởng và Thứ tưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld và Paul Wolfowitz....

Về công việc, văn phòng lượng định và Andrew Marshall chỉ có nhiệm vụ tham mưu bên Tổng trưởng Quốc phòng. Họ không có thẩm quyền về chính sách, chẳng bận tâm về tranh cử, ai lên ai xuống, về giá cổ phiếu thăng giáng, hay nghị quyết Liên hiệp quốc, Thượng đỉnh Liên Âu hoặc Đại hội đảng Trung Quốc. Họ cũng không phải hàng ngày trình lên lãnh đạo về an ninh, tình báo.

Tinh thần chỉ đạo của đơn vị thầm lặng này trong Ngũ Giác Đài là kỷ luật: lọc cho sạch tiếng ồn của thời sự mà tìm hiểu và dự báo về những gì sau này có thể đe dọa quyền lợi của Mỹ.

Thời đó, Hoa Kỳ vừa giải vây Trung Quốc mà Chiến tranh lạnh vẫn còn. Lượng định của ONA nói ngược với sự thẩm định của CIA. Rằng Lợi tức Quốc gia của Liên Xô chẳng cao như vậy, nhưng mối đe dọa quân sự từ Moscow thì trầm trọng hơn, nên Hoa Kỳ phải đối phó cách khác. Cũng thế, ONA ước lượng ngân sách quân sự của Trung Quốc là 140 tỷ, thực tế cao gấp đôi các con số phổ biến và nếu đi vào trận địa chiến với Trung Quốc tại Đông Á, Mỹ có thể bị đánh bại!

Cơ quan rất nhỏ bé và rất lạ này chẳng cần lấy lòng Tổng thống, Tổng trưởng hay Nội các Cộng Hoà hoặc Dân Chủ, chẳng đi theo nhận thức của đám đông mà lạnh lùng tìm hiểu về địa dư, lịch sử, văn hóa, kinh tế và kỹ thuật của thiên hạ để thấy ra những động lực thâm sâu của các nước hay các khối và đoán trước những rủi ro xung đột với Hoa Kỳ trong một tương lai rất xa....

Những lượng định của ONA đều được trình bày công khai, có đúng có sai, và vẫn được nhiều giới hữu trách trên thế giới quan tâm. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2012, một chủ biên chính của bốn Bạch thư về Quốc phòng của Bắc Kinh là Tướng Trần Châu cho biết ông chẳng hụt một báo cáo nào của Marshall, một người anh hùng của ông, và là nhà tư tưởng quan trọng và có ảnh hưởng nhất đến sự thay đổi tư duy về quốc phòng của Trung Quốc trong mấy thập niên từ 1990 đến sau này!

Ngẫm lại thì cũng phải.

Khi tìm hiểu địa dư hình thể và lịch sử Trung Quốc, người ta có thể biết vì sao Bắc Kinh phát triển lực lượng Hải quân từ hai chục năm trước và bây giờ uy hiếp lân bang. Khi nghiên cứu địa dư hình thể của đại lục địa Âu-Á, hay quan hệ lâu dài giữa Đế quốc Nga và Âu Châu, ta dễ thấy trước động thái của tập đoàn năng lượng Gazprom, hoặc việc Putin tấn công Georgia năm 2008 và ngày nay đang gây phân hóa cho Liên Âu. Không biết gì về địa dư và lịch sử Ba Tư thì khó hiểu ra trận đánh Iran-Iraq ngày xưa hay những toan tính đàm phán ngày nay vớ Hoa Kỳ....

Đơn vị nhỏ nhít và kín đáo này nhìn thật xa vào lịch sử, thật sâu vào địa dư để dự đoán chuyện vị lai trong nhiều thập niên tới. Khi hữu sự thì ít ra các tướng lãnh còn có bản đồ và không tung quân vào một trận chiến đã qua, với hình thái quân sự đã lạc hậu.

Ngày nay, ở tuổi 92, ông Marshall vẫn tiếp tục làm việc trong cơ quan lửng lơ đó. Nhưng nhiều phần thì ông sẽ về hưu sớm khi trận đánh về ngân sách sẽ cắt cánh Ngũ Giác Đài và cưa chân Viễn vọng đài: vì... thiếu ngân sách, cơ quan Office of Net Assessment có thể bị đóng cửa! Một thành tích khác của Obama...


***


Tổng thống Barack Obama có thể xúc phạm một đồng minh chiến lược là Nhật Bản khi chỉ định Caroline Kennedy làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Tokyo. Cô bé bất tài vô tướng và nói năng ngập ngọng này chỉ có cái danh hão là con gái của John Kennedy, nhưng được Obama đền công trả nợ bằng ghế đại sứ. Nhiều đời Tổng thống Mỹ cũng đã chỉ định các ân nhân về tiền bạc hay thế lực chính trị làm đại sứ cho Hoa Kỳ thay vì bổ nhiệm những nhà ngoại giao chuyên nghiệp đã học bài ở nhà. Cũng vậy, việc Tổng thống Mỹ hủy bỏ nhiều hội nghị với Châu Á để đấu võ ngân sách ở nhà đã làm các đồng minh ngao ngán... Nhìn trong lâu dài thì những vụng về đó rồi cũng sẽ qua, sai lầm được gỡ ra, rồi cột lại với một tổng thống khác. 

Nhưng sự bất biến vẫn là địa dư hình thể và lịch sử của Trung Hoa và Nhật Bản tại Đông Á, với tác động mới của kinh tế, của khoa học kỹ thuật, để dẫn tới những rủi ro mới. Khi đó, nước Mỹ có thể bị văng miểng ra sao? 

Chuyện văng miểng đó chưa xảy ra. Chúng ta chỉ thấy rằng Bộ Quốc phòng Mỹ bị văng một mắt kiếng. Chẳng có bản đồ mà người cận thị lại đòi cầm súng bóp cò thì chúng ta nên sợ....