"Diễn đàn Kinh tế"
Ý thức về nước là cơ hội giải phóng
    * Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon phát biểu tại Hội nghị 
hành động chống biền đổi khí hậu ở Washington DC, ngày 5 tháng 5 năm 
2016. NICHOLAS Kamm / AFP*  
   
Đầu Tháng Năm vừa qua, Ngân hàng Thế giới vừa công bố một công 
trình nghiên cứu về hậu quả của nạn biến đổi địa cầu là nạn thiếu nước 
cho nhân loại trong khi nhu cầu về nước cho kinh tế lại gia tăng. Bài 
toán ấy ảnh hưởng thế nào với kinh tế Đông Á?
Sản lượng kinh tế sẽ giảm 6%
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á châu Tự do cùng Nguyên Lam
 xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, hôm mùng 
ba Tháng Năm, Ngân hàng Thế giới công bố một báo cáo kinh tế đáng ngại 
là nạn biến đổi khí hậu, rồi lợi tức gia tăng và đà đô thị hóa đang gây tác
 dụng cộng hưởng là nhu cầu nước ngọt sẽ tăng vọt trong khi việc cung 
cấp nước lại bất thường khó định. Sau đó, định chế tài chính quốc tế này
 cảnh báo rằng nếu các nước không sớm hành động thì những nơi đang thừa 
nước như khu vực Trung Phi hay Đông Á sẽ bị thiếu và những nơi đang 
thiếu như tại Trung Đông hay khu vực sa mạc Sahel tại Phi Châu sẽ bị 
nguy ngập. Hiệu ứng chung là sản lượng kinh tế ở các vùng đó sẽ sụt mất 
6% vào năm 2050. Ông nghĩ thế nào về lời cảnh báo này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Từ cả chục năm nay rồi, trước khi chuyện 
biến đổi khí hậu trở thành đề tài thời thượng ăn khách thì Liên Hiệp 
Quốc đã báo động về nguy cơ thiếu nước của nhân loại vì hai lý do chủ 
yếu. Thứ nhất, địa cầu có những khu vực trời cho sẵn nước nếu so với dân
 số, như Úc châu, Nam Mỹ hay Bắc Mỹ thì cũng có hai khu vực ít nước đáng
 kể là Phi châu và nhất là Á châu. Thứ hai, Á châu lại phát triển nhanh 
nhất nên nhu cầu về nước đã tăng với tốc độ lũy thừa. Đã vậy, lục địa 
rộng lớn này lại có khả năng xử lý nước rất tệ, nhất là trường hợp Trung
 Quốc tại Đông Á, cho nên nguy cơ khủng hoảng vì khan hiếm nước là 
chuyện tất yếu.
Đông Á cứ sợ thiếu dầu mà chưa hiểu ra hai ba chuyện. Dầu là tài nguyên chiến lược, mà hết tầm khan hiếm nhờ kỹ thuật khai thác mới. Nước mới là tài nguyên sinh tử vì ảnh hưởng đến lương thực và mọi sinh hoạt khác của con người. Nguyễn-Xuân Nghĩa
- Nhìn từ giác độ kinh tế trong viễn ảnh dài, Đông Á cứ sợ thiếu dầu mà
 chưa hiểu ra hai ba chuyện. Dầu là tài nguyên chiến lược, mà hết tầm 
khan hiếm nhờ kỹ thuật khai thác mới. Nước mới là tài nguyên sinh tử vì 
ảnh hưởng đến lương thực và mọi sinh hoạt khác của con người.
Nguyên Lam: Trên diễn đàn này, cách nay hai tháng, trong 
bối cảnh của nạn hạn hán, tình trạng thiếu nước của sông Mekong làm đồng
 bằng sông Cửu Long của Việt Nam bị ngập mặn, ông đã cảnh báo tình trạng
 nguy ngập ấy với tựa đề là “Sông Mẹ và Biển Mẹ” như nguồn
 sống cho Việt Nam. Thưa ông, báo cáo vừa qua của Ngân hàng Thế giới có 
khiến quốc tế quan tâm hơn đến mối nguy thiếu nước không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thật ra diễn đàn của chúng ta đã đề cập tới
 những chuyện sinh tử này từ nhiều năm trước mà có lẽ người Việt Nam 
chưa mấy quan tâm dù quốc gia vẫn được gọi là “nước”, như nước Việt Nam,
 và dù văn hóa Việt Nam là văn hóa nước. Giống lúa ta ăn gọi là “lúa 
nước” và nhiều biểu tượng của dân ta đều liên quan tới nước. Trở lại câu
 hỏi của cô thì tôi không mấy lạc quan về phản ứng của thế giới, suy ra 
từ vụ khủng hoảng của sông Mekong và từ thái độ nhu nhược của các nước 
trước tinh thần kích kỷ và vô trách nhiệm của Bắc Kinh. Chúng ta phải 
khởi đi từ Trung Quốc thì mới thấy ra vấn đề cho Đông Hải và Việt Nam.
Nguyên Lam: Nguyên Lam xin mời ông bắt đầu từ chuyện nước của con người rồi đến chuyện nước Tầu của thế giới.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Nước là nguồn sống không thể thiếu, nhưng 
nhiều khi con người chẳng nghĩ vậy mà vẫn cho rằng đấy là kho trời vô 
tận, tương tự như không khí mà ta gọi là khí trời. Về thực tế, nước 
không là một nguồn sống hoàn toàn có khả năng tái tạo, như hơi nước bốc 
thành mây rồi đổ xuống thành mưa và mưa trên đầu nguồn lại chảy xuống 
sông ngòi rồi ra đến biển và bốc thành hơi nước sẽ làm mưa. Đấy là nguồn
 sống có giới hạn và xứ này mà tận dụng hoặc tiêu hủy nguồn nước thì các
 xứ kia có thể bị thiệt hại. Giới kinh tế gọi đó là "zero-sum game" - kết số là số không, người này uống nhiều thì người kia bị khát.
- Khi cùng chia sẻ một tài nguyên có hạn, việc giành giật có thể xảy ra
 như đã từng có trong lịch sử và hiện đang có tại Trung Đông. Tổ chức 
khủng bố ISIL đang dùng nước để mộ dân hay giết những ai chống họ. Giữa 
các nước với nhau, chuyện giành giật nguồn nước cũng là hình thái chiến 
tranh, dù không gây tiếng nổ thì vẫn là chiến tranh. Ta nên nhìn ra thực
 tế lạnh lùng ấy qua các kế hoạch xây đập hoặc chiếm lĩnh nguồn nước 
khiến các nước cùng sống nhờ một dòng sông phải ứng xử theo lối đấu 
tranh. Quốc gia nào chưa hiểu ra thì chết vì nước. Giải pháp lý tưởng là
 các nước nên hợp tác trong tinh thần trách nhiệm thay vì chỉ lo cho lợi
 ích riêng của mình mà gây hại cho xứ khác. Nhưng đấy là lý tưởng và các
 nước độc tài thường bất chấp lý tưởng và khơi dậy tinh thần ích kỷ của 
người dân hoặc gọi đó là chủ nghĩa dân tộc.
Tình hình Đông Á và Trung Quốc
Nguyên Lam: Bây giờ, xin ông trình cho quý thính giả của chúng ta tình hình Đông Á và Trung Quốc.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trên thế giới, lục địa Á Châu là nơi đông 
dân nhất, có đến bốn tỷ người, nhưng lãnh thổ quá rộng lại có "diện tích
 nước" rất giới hạn. "Diện tích nước" gồm có sông ngòi ao hồ để nuôi 
sống người dân ở ven bờ. Á Châu cũng là nơi có nhiều công trình thủy lợi
 nhất, hơn 70% của toàn thế giới, chính là để giành lấy nguồn sống quý 
báu này. Trung Quốc có diện tích nước thuộc loại ít nhất địa cầu dù có 
hai con sông lớn của Châu Á là Hoàng Hà và Dương Tử hoặc các mặt hồ nổi 
tiếng trong văn chương hay lịch sử. Khan hiếm nước là vấn đề sinh tử của
 Trung Quốc, còn chiến lược hơn năng lượng như dầu khí hay than đá.
Nguyên Lam: Ông nhắc đến hai con sông Hoàng Hà và Dương Tử 
thì người Việt chúng ta nhớ đến Cửu Long hay Mekong, cũng phát sinh từ 
rặng Hy Mã Lạp Sơn do Trung Quốc đang kiểm soát. Thưa ông, vai trò và 
trách nhiệm của Trung Quốc là gì trên khu vực đó?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đúng là một khía cạnh khác của nguồn sống 
chính là đỉnh trời Hy Mã Lạp Sơn. Sau khi tấn công Tây Tạng từ năm 1950 
và hoàn toàn xâm chiếm từ năm 1959, Trung Quốc kiểm soát được một phần 
lớn rặng Hy Mã Lạp Sơn và các đỉnh núi tuyết – mái trời của thế giới - 
là nơi xuất phát mười con sông lớn nhất của lục địa. Việc khai thác vô 
trách nhiệm trong khu vực Hy Mã Lạp Sơn này gây lũ lụt và hạn hán dưới 
chân núi và tạo ra hiện tượng "đẩy lui băng sơn", làm tuyết tan núi lở, 
và giảm dần lượng nước chảy xuống các dòng sông lớn của Á Châu. Nó cũng 
nguy kịch như hiện tượng băng tuyết bị sụt giảm trên Bắc cực.
- Thế giới Tây phương ngây dại báo động về nạn "nhiệt hóa địa cầu" hay 
"hiệu ứng lồng kính" do tiến trình công nghiệp hóa gây ra cho trái đất 
và đe dọa môi sinh của con người. Mà thế giới đó lại câm nín trước hiện 
tượng có thật và đếm được là Trung Quốc tiêu hủy nguồn nước trên thượng 
nguồn Hy Mã Lạp Sơn. Trung Quốc còn phá hoại nguồn sống dưới hạ nguồn 
qua việc xây dựng kinh đào để lấy nước tiêu tưới cho các khu vực khô cằn
 của họ, như lấy nước Dương Tử và cả thượng lưu Mekong chảy lên Hoàng 
Hà, trong kế hoạch gọi là Nam Thủy Bắc Điều, lấy nước miền Nam tiêu tưới
 miền Bắc cho các tỉnh Hà Nam, Sơn Đông và Hà Bắc bất kể đến tai họa cho
 chính cư dân của họ ở dưới. Việc xứ này thiết kế các đập thủy điện cũng
 nằm trong chiều hướng đó.
Nguyên Lam: Nói đến các đập thủy điện thì có lẽ Trung Quốc không là nước duy nhất trong các kế hoạch xây dựng này tại Á Châu, thưa ông có phải là như vậy không? 
Trên thế giới, lục địa Á Châu là nơi đông dân nhất, có đến bốn tỷ người, nhưng lãnh thổ quá rộng lại có "diện tích nước" rất giới hạn. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đây là lý do khiến người ta không tin vào 
quốc tế vì quả thật là nhiều quốc gia khác cũng đã gây mâu thuẫn với lân
 bang vì xây đập trên thượng nguồn mà không quan tâm đến quyền lợi và 
đời sống của các nước chung quanh. Loại chủ nghĩa dân tộc bằng đập nước 
là một hiện tượng mới và rất đáng ngại tại bốn khu vực. Thứ nhất là giữa
 Trung Quốc với hầu hết các láng giềng tại Á châu do vị trí của xứ này 
với đỉnh trời Hy Mã Lạp Sơn như ta vừa nói. Thứ hai là tại bán đảo Nam 
Á, giữa Ấn Độ và Pakistan. Thứ ba là vùng Đông Nam Á với sông Mekong 
quen thuộc của Việt Nam. Sau cùng là giữa năm nước Cộng hoà Trung Á có 
tên là "stan", tức là "đất của": Kazakhstan, Uzbekistan, Kyrgyzstan., 
Tajikistan và Turkmenistan. Thí dụ như Kazakhstan là "Đất của người 
Kazakh".
Nguyên Lam: Thưa ông, thế giới thường ngợi ca công cuộc 
phát triển kinh tế mà cho rằng qua giao thương buôn bán thì các nước hợp
 tác với nhau trong một mạng lưới cung ứng tỏa rộng nên cũng sẽ biết hợp
 tác với nhau. Phải chăng sự thật lại chẳng được như vậy?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng chỉ vì người ta thiếu cái nhìn toàn diện về kinh tế.
- Tôi xin lấy vài thí dụ: Trung Quốc cần nước cho lúa mì và gạo là hai 
lương thực họ sản xuất nhiều nhất, nhưng được bát nào thì ăn bát nấy nên
 vẫn chưa thấy an toàn về lương thực. Khi kinh tế tăng trưởng thì mức 
sống người dân khá hơn nên ăn thịt nhiều hơn bột. Thịt ấy là heo bò, gia
 cầm hay tôm cá. Vì vậy, họ cần ngũ cốc và thực phẩm nuôi gia súc, nên 
phải nhập khẩu ngô bắp, nhất là đậu nành mua của Mỹ. Các loại ngũ cốc 
này cũng cần nước, chẳng khác gì quặng sắt hay kim loại cho công nghiệp 
mà Trung Quốc nhập của nước Úc hay Brazil.
- Như vậy, quy luật ở đây khi xuất khẩu hàng hóa thì trong món hàng 
được chế biến ấy đã phải có rất nhiều nước của quốc gia sản xuất, và khi
 nhập khẩu thì người ta cũng nhập cả nước. Ít ai tính ra hàm lượng tích 
luỹ của nước trong các sản phẩm trao đổi, thí dụ như một ký thịt heo thì
 cần tám ký ngũ cốc mà tám ký ngũ cốc cần bao nhiêu nước để trở thành 
thực phẩm gia súc bán qua nông trại của Tầu? Tương tự như vậy, một tấn 
thép hay thùng dầu cần bao nhiêu nước trong cả quy trình sản xuất? Vì 
vậy, Canada và Úc, là hai quốc gia trời cho nhiều nước tính theo dân số 
rất thấp, đã phải nghiên cứu kế hoạch khai thác nước sao cho có lợi nhất
 sau khi tưng bừng buôn bán với Trung Quốc. Trong luồng trao đổi hàng 
hóa, giới kinh tế nên tính ra “cán cân nước” giữa quốc gia nhập khẩu và 
quốc gia xuất khẩu để gây ý thức về nhu cầu bảo toàn nguồn nước ngay từ 
đầu vào là khi sản xuất. Nước không là khí trời miễn phí đâu.
Nguyên Lam: Câu hỏi cuối, thưa ông , khi nói tới “đầu vào” 
là nước, thì ngoài nhu cầu hợp tác quốc tế rất khó khăn như ông vừa nhắc
 lại thì người ta có thể nào cải tiến việc xử lý nguồn nước 
hay giải 
pháp kỹ thuật khá tốn kém là biến nước biển thành nước ngọt được không? 
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Như phúc trình của Ngân hàng Thế giới có 
báo động, nạn khan hiếm nước sẽ gây họa trước tiên tại một số khu vực và
 bị thiệt hại nhất chính là dân nghèo. Vì vậy, khủng hoảng, di dân, bạo 
động và chiến tranh càng dễ bùng nổ vì nước. Các quốc gia tiên tiến hơn 
thì đã có ý thức tiết kiệm nước và liên tục cải tiến kỹ thuật tái sử 
dụng để bảo vệ môi sinh. Một xứ có ít nước nhưng thuộc loại tiên tiến là
 Israel của dân Do Thái tại Trung Đông đã đi khá xa trên con đường lọc 
nước biển ra nước ngọt với giá thành ngày một thấp hơn. Về kỹ thuật đó, 
người ta tìm ra chất graphen trong loại than chì graphite là cái lọc tốt và rẻ. Trong vài năm nữa, cuộc cách mạng về công nghệ graphen
 có thể giảm sức ép cho nhiều quốc gia khôn ngoan. Còn lại thì nên chờ 
khủng hoảng tại mấy nước vô ý thức về nước, kể cả Trung Quốc, nhất là 
Việt Nam.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á châu Tự do và Nguyên Lam xin cảm tạ ông về bài phân tích này.
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét