Nguyễn-Xuân Nghĩa - Ngày Nay Houston 120625
Mâu thuẫn Nội tại và Nguy cơ Khủng hoảng
* Đẹp như pháo bông *
Từ bốn năm nay, các nền kinh tế "hậu công nghiệp" như Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản đều bị suy trầm, thậm chí khủng hoảng như trường hợp năm sáu nước thuộc khối Euro. Giữa khúc quanh đó, năm 2010, Trung Quốc lại vượt Nhật Bản thành nền kinh tế thứ nhì thế giới chỉ sau Hoa Kỳ. Mà thành tích đó chỉ khởi sự từ có 30 năm trở lại. Như vậy, kinh tế Trung Quốc mạnh hay yếu? Là chuyên gia kinh tế, bỉnh bút Nguyễn-Xuân Nghĩa theo dõi tình hình xứ này từ khá lâu nên đưa ra một câu trả lời với nhiều nghịch lý cho độc giả Ngày Nay.
Những người bị mê hoặc bởi thành tích kinh tế của Trung Quốc có thể đã mắc bệnh "quên trí nhớ", một đặc sản của nước Mỹ quá trẻ, cứ hay hồ hởi sảng rồi hốt hoảng bậy.
Hãy nhớ lại ba chục năm trước và kho sách được các học giả Mỹ viết về sự lớn mạnh đáng sợ của nước Nhật. Chiến lược phát triển Nhật Bản được thâu tóm vào một chữ, Japan Inc. - Nhật Bản như doanh nghiệp, với sự kết hợp tay ba của doanh gia, chính khách và hành chánh công quyền. Người ta hồ hởi rồi e ngại Nhật Bản, đến độ thổi lên phong trào bài Nhật với rất nhiều tác phẩm văn chương và điện ảnh "hoành tráng" - chữ của Hà Nội, gần như đồng nghĩa với hào nhoáng mà ngây ngô. Chỉ vì khi đó, Nhật đã thành chủ đầu tư và chủ nợ lớn nhất thế giới và tung tiền mua những tài sản thuộc loại biểu trưng của Hoa Kỳ.
Vào ngày giao dịch cuối cùng của năm 1989, chỉ số Nikkei 225 của thị trường Nhật đã lên tới đỉnh là gần 39 ngàn điểm. Khi ấy, thế giới đang ngó về nước Đức và sự tan rã cận kề của Liên bang Xô viết nên không để ý là từ đó cổ phiếu Nhật đã mất gần 80% trị giá - đất đai hay nhiều tài sản khác cũng vậy. Nhật Bản trôi vào chu kỳ khủng hoảng, bảy lần suy trầm trong vòng hai chục năm. Mà chưa dứt. Năm ngoái, tổng số nợ của khu vực công quyền (xin gọi là công trái) đã lên tới 220% Tổng sản lượng Nội địa GDP.
Dù sao mặc lòng, ngày nay, nhiều người quên chuyện Nhật mà quay ra Trung Quốc - cũng với sự khâm phục hay hãi sợ tương tự. Trung Quốc đã vượt Nhật Bản để thành nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới và trên đà bắt kịp nước Mỹ, có thể vào năm 2016 này!
Người ta càng dễ tin như vậy khi các nền kinh tế "hậu công nghiệp" như Mỹ, Âu và Nhật đều bị suy sụp nặng từ bốn năm nay.
Xưa nay, các nước tiên tiến đó đều đề cao quyền tư hữu, áp dụng quy luật tự do, tôn trọng dân chủ và đảm bảo sự thực thi của các hợp đồng với sự can thiệp rất ít của chính quyền vào thị trường. Ngày nay, khuôn vàng thước ngọc đó như phá sản. Đối chiếu lại thì hình như Trung Quốc đã tìm ra cây đũa thần để có bước nhảy vọi vĩ đại nhất lịch sử Trung Quốc và nhân loại...
Bài viết này chỉ nói đến hai trong nhiều khía cạnh khác về huyền thoại Trung Quốc, điều không thật mà vẫn mê hoặc nhiều người.
***
Khía cạnh thứ nhất là tổ chức của bộ máy công quyền, xuất phát từ hoàn cảnh địa dư và chính trị.
Trên một diện tích bát ngát gần triệu cây số vuông, Trung Quốc chỉ là một "ốc đảo" tại vùng duyên hải, bao vây bởi đại dương ở hướng Đông và sa mạc, thảo nguyên hay núi rừng kiểm trở ở cả ba hướng còn lại. Khu vực "ốc đảo" là nơi trù phú nhất vì có độ ẩm đủ cao cho canh tác và có lưu vực của hai con sông Hoàng hà và Dương tử. Đây là nơi sinh sống của hơn 550 triệu dân trên tám tỉnh và ba thành phố lớn, đóng góp tới 64% tổng sản lượng quốc gia, với đa số người dân đều nhìn về hướng Đông, ra biển, để tìm nguồn sống và tư tưởng mới.
Ngoài ra là sự khô cằn và cách trở nên khó đầu tư phát triển và thực tế là các địa phương nghèo khổ, lạc hậu. Khoảng cách "trong ngoài", giữa miền Đông và các tỉnh bị khóa trong lục địa và bốn vùng phiên trấn vây quanh (Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông và Mãn Châu) là bài toán địa dư ngàn đời của xứ này.
Mà ngay tại trung tâm thịnh vượng nhất, diện tích canh tác trung bình tính theo đầu người trong cái ốc đảo ấy chỉ bằng một phần ba trung bình của thế giới mà thôi. Thật ra, Trung Quốc là một xứ nghèo và rất khó phát triển.
Sau khi giải phóng Hoa lục, Mao Trạch Đông đóng cửa với thế giới bên ngoài để tránh những tư tưởng hay lý luận phản động. Bên trong thì cào bằng tất cả để tiến tới một xã hội bình đẳng. Kết quả của chiến lược hoang tưởng đó là 30 năm khủng hoảng khiến mấy chục triệu người chết oan, từ 1949 đến 1979.
Khi giành được quyền bính, Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách theo hướng khai phóng, mở cửa để phát triển xứ sở. Sáng kiện đáng gọi là lịch sử của ông là thiết lập một chế độ quản lý hai mặt.
Chính trị thì tập trung tối đa, với ưu tiên là tư tưởng và lý luận để bảo vệ quyền lực đảng, và kiểm soát trật tự nội an ở mọi nơi là nghĩa vụ còn chiến lược hơn quốc phòng, và thuộc phạm vi của Lực lượng Cảnh sát Võ trang. Ngược lại, kinh tế thì tản quyền tối đa, cho đảng bộ địa phương tùy nghi áp dụng giải pháp thích hợp với hoàn cảnh ở tại chỗ. Hệ thống chính trị tập quyền khiến tư tưởng và kỷ luật của đảng có giá trị chỉ đạo. Hệ thống quản lý tản quyền giúp từng tỉnh có thể bung ra làm ăn và tạo ra phép lạ.
Nếu hiểu và nhớ được lịch sử Trung Quốc, người ta thấy ngay một áp dụng cổ điển của hệ thống phân quyền đã có hai ngàn năm kinh nghiệm: triều đình tại trung ương cho bộ máy quan lại ở địa phương một số quyền lực và quyền lợi kinh tế nhất định, miễn rằng ai ai cũng xiển dương đức sáng của Thiên tử.
Cái lẽ hợp/tan hoặc trị/loạn của xứ này cũng nằm ở đó. Lãnh đạo Bắc Kinh sau Đặng Tiểu Bình đều hiểu như vậy nên càng tập trung quyền lực về chính trị. Đảng kiểm soát tư tưởng và lý luận và quyết định về việc thăng quan tiến chức của các đảng viên ở địa phương theo tiêu chuẩn đó.
Với kết quả - hậu quả bất lường nói theo kinh tế học – là các đảng viên mọi cấp đều chịu trách nhiệm với thượng cấp ở trên, hơn là với những người ở dưới, dưới cùng là người dân.
Việc dồn sức đầu tư bất kể lời lỗ đã gây nhiều tốn kém mà không ai kiểm tra nổi vì ngần ấy bộ phận hữu trách đều tô hồng thực tế để báo cáo lên trên như một thành tích. Vì vậy, đầu tư quá tải và gây lãng phí đã thành quy luật phổ biến, nhưng vẫn làm thế giới bên ngoài trầm trồ khen ngợi. Trung Quốc dẫn đầu thế giới về sản lượng thép mà trong bốn tháng đầu năm nay, mức lời của các doanh nghiệp thép đã sụt 96,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Chẳng khác gì nhiều doanh nghiệp Nhật trước cơn khủng hoảng. Hiện tượng xây dựng các thành phố ma, những trung tâm thương mại nguy nga mà ể ẩm, hoặc xe lửa cao tốc vắng khách đã là mặt trái của phép lạ.
Cũng thế, việc trưng thu đất đai và bồi thường không thỏa đáng để lao vào các nghiệp vụ đầu cơ địa ốc đã dẫn tới động loạn xã hội mà vì thông tin có thanh lọc và kiểm soát nên khó ai biết được thực hư. Cho đến ngày nông dân dàn trận đánh nhau với "thành quản" hay công an võ trang.
Vụ khủng hoảng chính trị vừa qua tại Trùng Khánh là một điều bất ngờ cho những ai không thấy ra mâu thuẫn căn bản của Trung Quốc chính là mô thức tập quyền chính trị và tản quyền kinh tế.
Ngần ấy quốc gia Tây phương đều có thể bị suy trầm, suy thoái, thậm chí khủng hoảng, nhưng chế độ dân chủ dù tèm lem vẫn tạo ra cơ hội cho người dân thay thế lãnh đạo và tìm giải pháp khác qua bầu cử. Tại Trung Quốc thì không, suy trầm dẫn tới suy thoái và khủng hoảng kinh tế tất nhiên dội ngược lên trên thành khủng hoảng chính trị.
***
Nếu hệ thống tổ chức của bộ máy công quyền là bộ xương của cơ thể thì hệ thống tài chánh ngân hàng chính là huyết mạch. Trung Quốc cũng có vấn đề nguy ngập trong lãnh vực này.
Trong vụ khủng hoảng đang xảy ra tại các nước Tây phương, người ta tranh luận rất nhiều về chế độ bao cấp của nhiều nước khiến gánh nặng công chi chiếm một tỷ trọng quá lớn của kinh tế. Pháp là quán quân với ngân sách lên tới 56% của Tổng sản lượng, trung bình của cả Âu châu là 45%, của Hoa Kỳ đang bị báo động là vỡ nợ thì lên tới gần một phần ba.
Trung Quốc là một nước xưng danh xã hội chủ nghĩa mà số công chi của nhà nước chỉ lên tới 28% của GDP! Phép lạ ở đây là bộ máy nhà nước có quyền vọc tay vào ngân hàng để giải quyết nhu cầu chi dụng rất linh động của mình.
Đi vay ngân hàng không là cái tội, chỉ là vấn đề khi vay mà khỏi nghĩ đến trả và sẽ là khủng hoảng nếu để tài trợ các dự án đầu tư đầy lãng phí mà chẳng bao giờ vỡ nợ!
Một người có nhìn ra chuyện đó là Tổng lý Quốc vụ viện, nhân vật thứ ba trong hàng ngũ lãnh đạo, đó là Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Ông than phiền rằng các ngân hàng của Trung Quốc kiếm lời quá dễ nhờ vị trí độc quyền của chúng. Các ngân hàng lớn nhất đều là doanh nghiệp nhà nước, với lãnh đạo là các đảng viên cao cấp được bố trí và điều động qua sự phán xét của ban Tổ chức Trung ương đảng, chứ không phải Hội đồng Quản trị hay các cổ đông, hay thị trường.
Năm đại gia đứng đầu xứ này kiểm soát phần lớn nguồn tín dụng và làm chủ 50% tổng số tài sản đầu tư, trong khi 90% nguồn tài trợ của doanh nghiệp Trung Quốc, từ quốc doanh đến tư doanh, đều là tín dụng ngân hàng - chứ không là vốn riêng, hoặc huy động trên thị trường cổ phiếu.
Từ trung ương đến từng địa phương, các ngân hàng của nhà nước kiếm tiền từ đâu?
Nhờ ký thác của công chúng với lãi suất cận âm, gần bằng số không. Chính sách "mỗi hộ một con" khiến thành phần trung niên khá giả một chút - 300 triệu dân trên ốc đảo miền Đông chứ không ít - phải nuôi tứ thân phụ mẫu mà không có ngả đầu tư hay bảo hiểm nào hơn là một chút tiền lời từ trương mục tiết kiệm của ngân hàng.
Với nguồn vốn huy động quá rẻ, ngân hàng ưu tiên tài trợ cho các doanh nghiệp nhà nước, hoặc các công ty đầu tư do chính quyền nhà nước ở địa phương lập ra để thực hiện các dự án đầu tư cũng của nhà nước. Dù tài trợ theo điều kiện ưu đãi thì các ngân hàng vẫn được bảo đảm là có sai biệt lãi suất là 3% (giữa lãi suất ký thác và lãi suất tín dụng) mà khỏi cần đảm bảo là sẽ thu được nợ. Vì các khoản nợ này cũng gián tiếp là của nhà nước.
Một mô hình ăn cướp theo kiểu Ponzi – nhưng rất "phải đạo".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét