Thứ Bảy, tháng 2 28, 2015

Tiếng Kêu Tết Mậu Thân Huế 1968



Nhã Ca - Đại học UC Berkeley Ngày 150225


Những người Huế từng bị tàn sát Tết Mậu Thân xứng đáng được tưởng niệm.















* Từ trái, Giáo sư Olgar Dror của phân khoa Lịch Sử tại Đại học Texas A&M University, đồng thời là dịch giả sách “Mourning Headband for Huế” đang thuyết trình về trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, với hình ảnh những hầm chôn người tại Huế xuất hiện trên màn hình. Trên bàn thuyết trình là Giáo sư Peter Zinoman của Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á thuộc Đại học U.C. Berkeley và nhà văn Nhã Ca, tác giả “Giải Khăn Sô cho Huế tại Huế”. *
 


Kính chào quí vị,

Hôm nay, với người Việt chúng tôi, vẫn còn là ngày Tết. Mùng Bảy Tết. Xin chúc tết theo truyền thống Việt Nam: “Kính chúc tất cả quí vị một năm mới Ất Mùi an lành.”

Và xin cám ơn UC Berkely. Cám ơnm Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á; Cám ơn Giáo sư Peter Zinoman và quí vị trong ban tổ chức.

Giáo sư Olga Dror, nhà nghiên cứu và giảng dạy về văn hoá lịch sử Việt Nam, đã trình bầy đầy đủ về biến cố Tết Mậu Thân và "Giải Khăn Sô cho Huế." Cám ơn Olga.

Thưa quí vị và các bạn,

Là người viết văn thường viết khi một mình, tôi chỉ quen viết, không quen nói. Sẽ không bao giờ có thể là diễn giả. Bài nói chuyện này được viết trước. Tôi viết tiếng Việt và nói bằng "văn viết".


Tiếng Kêu Tết Mậu Thân

Hình như mỗi người đều có cuốn lịch riêng của mình, trong nhà hoặc trong đầu. Tôi biết mỗi tờ lịch có câu chuyện của nó, cả chuyện hôm qua, hôm nay, lẫn ngày mai. Câu chuyện của từng tờ lịch trong cuốn lịch chung được gọi là lịch sử.

Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến dài nhất của lịch sử Hoa Kỳ trong thế kỷ 20. Cuộc chiến ấy có cái bóng dài hơn là chính nó. Đó là cái bóng của trận tổng tấn công Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968, do phía cộng sản thực hiện. Với những hầm chôn người và hàng ngàn thường dân Huế bị tàn sát, cái bóng oan khiên ấy ngày càng được nối dài. Dài hơn một trận đánh. Dài hơn cả cuộc chiến. Chưa biết đến bao giờ mới ngừng.

Là người sống sót từ trận chiến Tết Mậu Thân, tôi viết "Giải Khăn Sô cho Huế". Đây không phải tiểu thuyết hư cấu. Cũng chẳng phải văn chương thơ phú. Chỉ là chuyện thật, chuyện chạy bom chạy đạn. Chuyện mình, chuyện người. Mắt thấy tai nghe. Có sao viết vậy. Chỉ là những mảnh vỡ của một thành phố tan tác trong cảnh hỗn mang giữa máu lửa, chết chóc. Giáo sư Olga Dror gọi chúng là những "hình ảnh tức thì" của cuộc sống bị hủy hoại và vỡ nát. Bà "nghe" thấy tiếng nói từ loại hình ảnh này.

Là một trí thức Do Thái được sinh ra và lớn lên tại Nga từ thời Sô Viết, bà Olga đã rời khỏi đất nước này khi Liên Bang Xô Viết còn là một siêu cường. Hơn 10 năm sau khi chế độ Xô Viết đã sụp đổ, Giáo sư Olga Dror có dịp trở lại nước Nga. Năm 2012, trong một cuộc hội thảo về kinh nghiệm quan hệ giữa nước Nga và Việt Nam tổ chức tại Moscow, Olga thuyết trình về đề tài "Trận chiến Tết Mậu Thân tại Việt Nam và cuốn sách Giải Khăn Sô cho Huế." Nhưng nước Nga hậu Xô Viết vẫn không hề khác 25 năm trước. Thái độ của cuộc hội thảo với đề tài này là chỉ có thể đề cập tới "tội lỗi của phía Mỹ" trong trận chiến. Mọi lý lẽ khác bị dập tắt.

Olga kể là sau đó, ngay chính trên đất Nga chứ không phải đâu khác, bà thấy mình quyết tâm hơn bao giờ hết, trong việc phải bảo vệ thứ tiếng nói từng bị vùi dập trong chiến tranh. Olga còn cho biết nguồn sức mạnh khích lệ bà trong quyết tâm này là những chuyện mà ông bà nội của bà đã phải chịu đựng trong thời Đệ Nhị Thế Chiến tại thành phố St. Petersburg.

Năm 2012 là lúc người dịch và người viết "Giải Khăn Sô cho Huế" bắt đầu liên lạc làm việc với nhau. Nhưng khi sự việc trên đây xẩy ra, tôi không hề biết gì. Khi đó chúng tôi chưa quen nhau. Tôi không biết cuốn sách "Giải Khăn Sô cho Huế" đã cùng đi với Olga tới nước Nga ra sao. Chỉ biết Olga Dror là vị học giả uyên bác, người viết về Bà Chúa Liễu Hạnh của Việt Nam, một công trình nghiên cứu mà chúng tôi khâm phục. Ba năm liên lạc thư từ cùng làm việc, đã coi nhau là bạn, nhưng chỉ khi công việc đã xong, cầm cuốn sách anh ngữ trên tay, đọc bài của Olga, tôi mới biết chuyện này.

Điều mà Giáo sư Olga tìm thấy trong cuốn sách Giải Khăn Sô cho Huế, là "tiếng nói của người dân trong chiến tranh." Bà nói cuốn sách là cái nhìn cuộc chiến không qua cặp mắt của người lính hay chính trị gia, bình luận gia, mà qua cặp mắt của người dân không phe phái. Nó mô tả kinh nghiệm của những người dân bình thường.

Sau khi liệt kê đầy đủ và đối chiếu với các loại quan điểm khác nhau về trận chiến đã được nói lên từ nhiều phía, nhiều nơi, nhiều nước, Olga nhấn mạnh "Mourning Headband for Huế" là quan điểm, là tiếng nói đích thực của người dân miền Nam Việt Nam. Với nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam, tiếng nói này hoàn toàn bị cấm kỵ. Tác giả từng bị bắt bỏ tù, cuốn sách từng bị đóng đinh và cho tới nay vẫn tiếp tục cấm đoán. Ngay tại Hoa Kỳ, tiếng nói của người dân miền Nam cũng chưa từng được lắng nghe. Sách viết về chiến tranh Việt Nam hầu hết đều phát xuất từ miền Bắc Cộng Sản.

Olga cũng nói đọc Nhã Ca trong Giải Khăn Sô cho Huế, có khi người ta nghe tiếng la thất thanh, tiếng kêu gào tới mức không còn ra tiếng nữa. Tôi biết đó là tiếng kêu từ Huế Tết Mậu Thân. Tiếng kêu của người dân miền Nam trong cuộc chiến.

Hôm nay, lần đầu tiên. tiếng kêu ấy được mang đến U.C. Bekerley.

Nhờ buổi họp mặt này, hai chị em chúng tôi được gặp nhau lần đầu. Cuốn sách chúng ta có hôm nay không chỉ là bản dịch. Phần chính của sách là công trình nghiên cứu nghiêm túc của Giáo sư Olga về tiếng nói của người dân trong trận tấn công 1968. Giải Khăn Sô cho Huế và Nhã Ca, với hàng trăm chú giải chi tiết kèm theo bản Anh ngữ do Olga thực hiện, chỉ còn là đề tài của công trình nghiên cứu.

Tha lỗi cho tôi, Olga.

Tôi đã đẩy sang vai bạn phần lớn gánh nặng.

Bạn đã lãnh dùm việc nhìn lại toàn bộ trận chiến Tết Mậu Thân tại Huế. Bạn cũng đã giới thiệu quá đầy đủ về cuốn sách, tác giả và tác phẩm. Phần tôi, chỉ xin góp thêm chuyện bên lề, lan man không thứ tự. Bắt đầu bằng...

 
Ký ức một thời về chiến tranh, khủng bố

 
Tôi ra đời cùng lúc với cuộc Đại Chiến Thế Giới lần thứ hai. Huế thời đó còn là kinh đô của các ông vua triều Nguyễn, nhưng cả nước đã trở thành thuộc địa của Pháp.

Năm 1937, quân Nhật tiến chiếm nước Trung Hoa rồi tràn vào Việt Nam kéo theo bom đạn của thế chiến.

Từ thủa còn bé thơ, hai ba tuổi, tôi đã biết nếm mùi chiến tranh, bom đạn, nhà cửa bị đốt cháy, cả nhà phải chạy loạn, đi tản cư trên những chiếc ghe, người lớn chèo trối chết, thuận hoặc ngược dòng sông để lánh nạn.

Năm 5, 6 tuổi, có lần theo lũ trẻ chơi đùa trên sân đình làng quê, thấy một bãi máu nhuộm đỏ từ gốc cây sung, bọn trẻ chạy theo, lên thềm đình. Xác một người đàn ông bị cưa ra làm 3 khúc. Đầu treo trên cây, thân nằm giữa sân và tay chân sắp trên thềm đình. Người bị giết là một thợ rèn, hiền lành. Việt Minh giết.

Năm tôi 9 tuổi. Tại Huế, Việt Minh cướp chính quyền, vua Bảo Đại thoái vị, con đường Nam Giao của Huế, nơi có nhiều vườn chùa êm ả bỗng dấy lên nhiều cảnh kinh hoàng. Lúc đó, tôi học ở một trường tiểu học tên là trường Nam Giao. Sáng sớm, mấy bạn trong xóm rủ nhau đi học, bọn con nít chúng tôi thường kinh hoàng la hét, khi thấy một cái đầu bị cắt đứt lìa từ cổ để trong một cái rổ tre với một miểng giấy ghi của Việt Minh lên án Việt gian. Có khi đầu lâu hay thân người, hay cánh tay, đùi chân đặt trên cái rá, cái thúng. Có người tứ chi bị cắt rời, thân bỏ vào bao bố, đầu để ra ngoài, hai con mắt mở trừng trừng, miệng còn dính máu đông, rất hãi hùng.

Nhưng rồi... có một lần, bạn tôi không la, không hét, không xô đẩy. Mà cũng như thấy xung quanh không hề có ai. Cũng không nhấc tay, dợm chân. Bạn đứng sững. Tuy còn là một đứa nhỏ, nhưng tôi biết "đứng như trời trồng" là lúc bạn đứng đó. Hai cái đầu được bày trên hai cái nón lá chính là ba và mẹ của bạn. Bạn ra sao lúc đó? Bạn cứ đứng vậy. Hai mắt bạn cũng trắng dã, trợn trừng như bốn con mắt không thể nhắm của ba mẹ bạn.

Tôi cũng đứng như vậy. Không nhấc nổi tay chân. Không mở miệng. Sau đó, người ta xua đuổi bọn con nít đi. Tôi lạc mất bạn.

Và rồi, Tết Mậu Thân 1968, chuyện tàn sát tập thể bằng cách chôn sống đã diễn ra tại Huế. Hàng ngàn dân Huế bị chôn ở Thành Nội, ở Gia Hội, ở Bãi Dâu, ở Phú Thứ, ở khe Đá Mài... Không chỉ trong núi trong rừng, nơi họ bị chôn còn là đất chùa, đất nhà thờ, đất trường học, và ngay tại vườn nhà.

Trong số những người bị chôn có chị Tâm Tuý, cô bạn trường Đồng Khánh của tôi. Khi xác được đào lên, thấy tóc mọc dài hơn, móng tay mọc dài hơn. Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống, như nhiều nạn nhân khác.

Trong cuộc hưu chiến đêm giao thừa mùng một tháng Giêng Tết Mậu Thân, nhằm ngày 29 tháng Giêng 1968, các đơn vị cộng quân - gồm cả quân chính qui Bắc Việt và dân quân địa phương - lặng lẽ tiến vào Huế, kiểm soát được khu Gia Hội trong 20 ngày. Chỉ trong thời gian ngắn ngủi này, có tới 473 người Huế bị chôn sống.

Tiếng kêu Tết Mậu Thân từ "Giải Khăn Sô cho Huế" mới chỉ là những ghi nhận đầu tiên. Còn hàng ngàn tiếng kêu khác bao năm qua vẫn liên tục cất lên, ngay trên đất Hoa Kỳ. Xin kể một trường hợp mà chính tôi biết rõ: Ông Võ Trang, 56 tuổi, cư dân San Diego, một kỹ sư điện đang làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại đây, hồi tưởng việc bố của ông được mời đi "họp" chỉ 2 ngày trước khi quân đội quốc gia tái chiếm thành phố Huế. Ngày ấy, ông còn là một thiếu niên 15 tuổi. Sau đây là đoạn trích do ông Võ Trang viết:

"Trong khi tôi đang ngồi cạo chiếc ghế xích đu cũ để sơn lại thì bỗng có người vỗ vai tôi và hỏi nhẹ "Em ơi! Có ba ở nhà không?" Tôi bàng hoàng quay lại. Hai người, một dân quân áo bà ba quần cụt, một chính quy với dép râu và quân phục, nón cối màu vàng. Tôi hỏi lại họ muốn kiếm ai thì họ nói tên ba tôi rõ ràng. Chị giúp việc mà gia đình tôi vừa thuê vài tháng trước đã mở cửa sau cho họ. Tôi vào kêu ba tôi trong hầm giã chiến. Hết đường chạy rồi! Phòng chỉ có một cửa ra vào thì họ đã đứng chận. Ba tôi mặt tái xanh và không nói gì nữa. Trong hầm còn có một người em trai của me tôi, là một cảnh sát viên, đã khuyên ba tôi nên đi ra để họ khỏi xông vào bắt thêm những người họ không dự định. Me tôi đưa thêm chiếc áo len cho cho ba tôi mặc vào. Người anh thứ hai của tôi chạy theo xin đi thế nhưng họ không cho. Hôm đó là ngày 19 âm lịch tháng Giêng năm Mậu-Thân...

"Khoảng hơn một tuần sau, các hầm chôn người tập thể nằm phía sân sau của trường Tiểu Học Gia Hội được phát hiện. Xác người khi được khai quật, tuy chưa bị rữa nhưng đã sưng phồng lên và bốc mùi.

"Cái thây người được kéo lên để nằm ngửa người trên một u đất, miệng há hốc, mặt đen xám và dính đầy đất, hình ảnh mà cả cuộc đời tôi không bao giờ quên. Đó là ba của tôi. Những chứng cớ không thể chối cãi. Chiếc áo có vẽ 4 cái đầu của ban nhạc "The Beatles" bên ngực trái, là chiếc áo độc nhất vô nhị của anh tôi mà ba tôi rất thích. Hai chiếc tất (vớ) thêu lủng lỗ mà anh em chúng tôi đều biết được chia đều vào 2 túi quần. Rõ ràng là dấu hiệu ba tôi để lại cho gia đình nhận diện. Tôi không biết ba tôi đã vật vã như thế nào vào giờ phút đó nhưng me tôi và các anh em tôi thì vẫn đau đớn cho đến bây giờ...".

Võ Trang cho biết trong số người bị chôn có cả cô gái 19 tuổi ở cách nhà ông 2 căn. Người anh là một cảnh sát viên vắng mặt nhưng có tên trong danh sách được mời, cô em thay thế anh "đi họp"!

Và kể thêm: "Thảm sát tập thể như thế này cũng đã xảy ra ở Sịa, vùng quê gần Huế, vào năm 1947. trước khi rút lui vì nghe tin quân Pháp sắp trở lại, cộng sản kêu gọi dân chúng đi đào hầm chống Pháp. Những hầm này thật ra chính là những hầm chôn tập thể chỉ trong vài ngày sau đó. Theo lời chú tôi kể lại họ đi bắt người cả ban ngày và ban đêm. Ông Cố Nội của tôi, đã 70 tuổi cũng đã bị bắt đi vào ngày 17 tháng 2 nhằm ngày 20 Tết Âm Lịch. Lúc đầu người ta phát giác xác anh TH., một nhân vật có võ được biết trong làng, chết bên vệ đường với nhiều vết chém, đứt cả bàn tay. Rồi lần theo vết máu người ta tìm đến những hầm chôn người tập thể trong đó có cả Ông Cố Nội của tôi và em của Ông. Những vết cắt cho thấy họ bị chặt đầu bằng mã tấu! (1).

Và Đêm Huế 1970. 

Hai năm sau trận chiến Mậu Thân, họp mặt ra mắt sách "Giải Khăn Sô cho Huế" lần đầu tại Sàigòn, với sự hiện diện của Hoà thượng Thích Trí Thủ, vị đại sư huynh của các nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam. Sau đó toàn bộ số thu từ cuốn sách được mang về trao tặng trường trung học Đồng Khánh và Đại học Y Khoa Huế. Chuyến đi Huế lần này có sự tham dự của Linh mục Cao văn Luận, viện trưởng sáng lập Đại học Huế, nhà văn Doãn Quốc Sỹ, các nhạc sĩ Phạm Duy, Cung Tiến.

Tại Huế vào thời điểm này, dân chúng ngày ngày đang lùng kiếm đào bới các hầm chôn người do cộng quân để lại, thành phố đổ nát đầy tang tóc. Đêm Huế 1970 cho tôi những hình ảnh nhớ đời.

Một buổi chiều, với chiếc xe Volkswagen, chúng tôi sang Thành Nội. Đây là chiếc xe của ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick để lại trong chung cư y khoa sau khi bị cộng quân bắt đi. Ông bà cùng hai vị bác sĩ người Đức khác là Raimund Discher và Bác Sĩ Altekoester là bốn bác sĩ người Đức sang giúp trường Y khoa Huế từ 1960. Cả bốn vị đều đã bị cộng quân bắt đi xử bắn.

Tại Thành Nội, chúng tôi có buổi ăn tối với các bạn ở trường Âm Nhạc Huế. Đây là nơi trú đóng của cộng quân trong cuộc giao chiến. Trong khu vườn nhà trường, có con mương dẫn nước chạy qua. Lúc đứng ở sân, người vợ của anh bạn giám đốc trường nhạc chỉ tay vào cái mương, nói là sau khi Việt Cộng đã rút chạy, anh chị trở lại đây, thấy xác binh sĩ Việt Cộng nằm chết xếp lớp dày đặc trong con mương.

Người chết không còn oán thù, có một mâm cơm, một bát nhang bày ở đó.

Trên đường lái xe về, trong đêm Huế thê lương đâu đâu cũng thấy bầy bàn thờ nhang khói, chúng tôi có ngừng lại thăm một ngôi nhà có người cha người anh đã bị cộng sản chôn sống tại Gia Hội. Con em trong nhà mang áo xô gai, thay nhau cầm bó đuốc chạy quanh gốc cây trước nhà. Theo niềm tin của dân gian, những hồn chết oan không biết đường về nhà. Phải đốt đuốc hướng dẫn cho linh hồn lưu lạc biết đường mà trở về.

Có biết bao hồn oan trong trận chiến Huế Mậu Thân đang chờ ánh đuốc, cả hồn oan của những chiến binh miền Bắc bỏ xác trong mương nước thành nội.

Năm Ất Dậu, 1885, Pháp đã đưa quân vào Huế uy hiếp triều đình. Đêm 23 tháng 5 âm lịch, 30,000 quân Nam tấn công căn cứ Pháp tại Mang Cá nhưng bị đánh bại. Kinh thành thất thủ, đại thần Tôn Thất Thuyết phải mang Vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị mở phòng trào Cần Vương. Trong trận chiến này, hơn 1500 quân dân Huế bị tàn sát. Ngay từ năm Mậu Tuất tiếp theo, Huế lập Đàn Tưởng Niệm, xây thêm miếu Âm Hồn trong Thành Nội, hàng năm, đúng ngày giỗ, cả thành phố đều đốt nhang, làm lễ. Thực dân Pháp không cấm việc dân Huế tưởng niệm người chết. Cộng sản thì khác.

Huế Mậu Thân, số nạn nhân bị tàn sát nhiều gấp 5 lần, nhưng từ sau 1975, mọi đài tưởng niệm đều bị phá bỏ, dân chúng thì bị công an đến từng nhà truyền lệnh cấm tụ tập làm giỗ.
 
Hình ảnh bập bùng của những ngọn đuốc đêm Huế ấy bao năm vẫn chập chờn trong đầu tôi.

 Từ trái: Giáo sư Peter Zinoman giới thiệu tác giả Nhã Ca và dịch giả Olga Dror


Thưa quí vị,

Năm Ất Mùi 2015, bốn mươi năm sau chiến tranh Việt Nam cũng là dịp kỷ niệm 20 năm bang giao Việt Mỹ.

Lịch sử có ghi là hai năm trước khi Nội chiến Nam Bắc Mỹ kết thúc, tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đã chỉ định "một ngày tủi nhục quốc gia" cho nước Mỹ. Trong ngày này ông đã kêu gọi cả nước nhận chung "tội lỗi của chúng ta" và cùng nhau xưng tội, cầu nguyện sự tha thứ.

"Ngày tủi nhục quốc gia" được công bố tại Mỹ là ngày 30 tháng 3 năm 1863. Đã hơn 150 năm. Nội chiến Hoa Kỳ chấm dứt vào vào tháng Tư năm 1865. Liên Bang nước Mỹ, với sự tôn trọng dành cho phía miền Nam - lá cờ miền Nam vẫn được treo, binh sĩ miền Nam vẫn giữ súng cá nhân, liệt sĩ Nam Bắc chung nghĩa trang, cả nước không có một cuộc diễn binh hay lễ hội mừng chiến thắng. Từ đó mà có được nước Mỹ ngày nay.

Sau Tết Ất Mùi, sang năm sẽ là Tết Bính Thân. Sắp thêm một năm Thân.

Chiến tranh Việt Nam, anh em một nhà bị đẩy tới chỗ giết nhau, thù hận nhau. Tháng Tư 1975 của Việt Nam - sau tháng Tư của nước Mỹ 110 năm - thêm cả triệu người miền Nam bị thủ tiêu, tù đày, chìm dưới đáy biển. Vậy mà cho tới nay, tại Việt Nam cũng như tại nhiều nơi, trong nhiều cái đầu, vẫn chưa thấy nghĩ lại.

Trong bài "Tựa Nhỏ: Viết Để Chịu Tội" mở đầu sách Giải Khăn Sô Cho Huế, tôi có viết rằng chính thế hệ chúng ta, thế hệ của tôi phải chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát Tết Mậu Thân cũng như cả cuộc nội chiến. Tầm nhìn thế hệ không phải phân biệt tả hữu, nam bắc. Sau đó là lời mời gọi cùng đứng trước bàn thờ ngày giỗ.

Khi viết lời tựa nhỏ cho bản in lần đầu "Giải Khăn Sô Cho Huế" vào năm 1969, tôi viết với niềm tin vào tương lai của Huế, tương lai Việt Nam.

Vào năm 2008, khi viết thêm ít dòng cho bản Việt ngữ của cuốn sách được tái bản ở Mỹ, tôi viết "Sẽ tới lúc phải có một bàn thờ chung, ngày giỗ chung tại quê hương, nơi từng biết thế nào là sự ăn ở tử tế, như từng biết thế nào là văn hóa, lịch sử."

Và hôm nay, tại đây, vẫn với nguyên vẹn niềm tin xưa, tôi tiếp tục chờ đợi.

Những người Huế từng bị tàn sát Tết Mậu Thân xứng đáng được tưởng niệm.

Các thế hệ tương lai tại Việt Nam xứng đáng được nghe, được nghĩ, được nói điều chân thật, được hưởng một đất nước lành lặn, sạch sẽ. Ngày ấy sẽ tới.

Kính chào và cám ơn quí vị.

Nhã Ca

(1) Bài “Xuân Này Nhớ Xuân Xưa” của tác giả Võ Trang, sách “Viết Về Nước Mỹ” 2009.

Bottom of Form

Bài trích từ Việt Báo số ra ngày 150228:

http://vietbao.com/a234271/47-nam-sau-vu-tan-sat-tet-mau-than-giai-khan-so-cho-hue-toi-uc-berkeley



Thứ Năm, tháng 2 26, 2015

Mê Cung Năm Mùi


Hùng Tâm - Hồ Sơ Người-Việt Ngày 15022

Chúng ta chẳng biết là mình không biết về quá nhiều chuyện 
– mà vẫn thản nhiên....

* Mê cung màu hồng, như tranh lập thể *


Bóc tờ lịch hay lật tờ báo đầu năm, người ta thấy những gì?

Tại thủ đô Âu Châu là Bruxelles, các nước liên hệ tìm ra giải pháp tạm bợ cho món nợ không thể trả của Hy Lạp. Giải pháp tạm để cứu lấy đồng Euro và sự thống nhất cũng tạm của Liên hiệp Âu châu. Ngay trang bên, hay tại một thủ đô khác là Minsk của Cộng hoà Belarus, nguyên thủ bốn nước Nga, Đức, Pháp và Ukraine cũng tìm ra giải pháp ngưng bắn tạm cho Ukraine, dù sau đó súng vẫn nổ, người vẫn chết. Tại trung tâm Geneva của Thụy Sĩ, đại diện của năm quốc gia Anh, Pháp, Mỹ, Nga và Đức đã đạt thỏa thuận với Chính quyền Iran về một giải pháp cũng tạm bợ cho kế hoạch võ khí hạch tâm của Iran.

Chưa nói đến sự lúng túng của Hoa Kỳ về chiến lược đối phó với lực lượng ISIL - Đế chế đang ôm tham vọng lãnh đạo khối Hồi giáo bằng khủng bố - ba vấn đề kể trên là Euro, Ukraine và Iran vẽ ra một mê cung labyrinth - không, ba mê cung lồng vào một - làm người ta hoa mắt chẳng hiểu gì cả. Sự thật còn đáng sợ hơn: chính những người trong cuộc, lãnh đạo các quốc gia liên hệ, cũng chẳng hiểu gì về những việc phải làm.

Họ không hiểu mà vẫn làm như biết hết. Còn chúng ta thì tin rằng họ biết nên sẽ phải giải quyết những mâu thuẫn này. Nếu không thì thế giới sẽ loạn to. Vào buổi đầu năm, Hồ Sơ Người-Việt xin nói về mầm loạn của sự thiếu hiểu biết này.

Vì sao lại như vậy thì xin để vào... phần kết luận!


Âu Châu Loạn To

Mọi sự khởi đầu vào Xuân Mậu Tý 2008, lâu lắm rồi, khi trái bóng gia cư địa ốc tại Mỹ bị bể, dẫn tới một vụ khủng hoảng tài chánh với sự sụp đổ của nhiều doanh nghiệp đầu tư Hoa Kỳ.

Sau đó, giữa chu kỳ suy trầm kinh tế  Mỹ, nạn ách tắc tín dụng (ngân hàng thiếu thanh khoản để cho vay) đã gây ra Tổng suy trầm 2008-2009. Khi kinh tế bị suy trầm và sản xuất đình trệ, Âu Châu bắt đầu bị khủng hoảng. Người ta lầm tưởng răng Âu Châu mắc họa là vì Hoa Kỳ, sau đó mới biết rằng cả khối Euro lẫn các nước trong Liên hiệp Âu châu đều có nhiều nhược điểm nội tại, như những vi khuẩn mai phục bên trong nay có dịp phá tác khi cơ thể bị suy yếu.

Phải chi Ngân hàng Trung ương Âu châu có thẩm quyền giải quyết. Hoặc, phải chi hệ thống tiền tệ thống nhất của khối Euro được xây dựng trên một hệ thống ngân sách thống nhất. Giới kinh tế giải thích như vậy. Toàn những chuyện "phải chi" có vẻ luyến tiếc. 

Còn chuyện phải chi thật thì ai chi ai hưởng?

Đã vậy, hỏi giới lãnh đạo chính trị và kinh tế Âu Châu, họ nói lung tung!

Nguyên Chủ tịch Hội đồng Âu châu, cơ chế có trách nhiệm Hành pháp, là Jacques Delors, cựu Thủ tướng Pháp thuộc cánh tả, thì phê phán lãnh đạo Âu châu là gây ra khủng hoảng mà chẳng tìm cách cấp cứu, lại cứ đòi xây dựng lại một cơ chế lành mạnh hơn. Cựu Tổng thống Pháp Valéry Giscard d'Estaing thuộc cánh hữu, một công trình sư của bản Hiến pháp Âu châu, phản bác rằng cơ chế Âu châu thật ra vững mạnh mà chỉ vì các nước không chấp hành kỷ luật ngân sách qua thỏa ước Ổn định Tài chánh mà thôi. Nguyên Thủ tướng Felipe Gonzales của cánh tả Tây Ban Nha lại tìm ra một nguyên nhân khác: các nước lâm nạn không chịu cải cách cơ chế. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Âu châu là Mario Draghi thì khẳng định từ 2012 là sẽ làm mọi cách để giảm nợ cho mấy xứ lâm nạn và cứu lấy đồng Euro - mà hai năm sau vẫn chưa làm được gì.

Khi những người am hiểu mà giải thích như vậy thì làm sao báo chí hay công luận biết được nguyên nhân và giải pháp? Năm năm sau vụ khủng hoảng – không, bảy năm sau – người trong cuộc vẫn chưa xác định được bệnh tình nên chẳng thể thống nhất quan điểm về phương thuốc.


Cộng Hoà Liên Bang Đức Là Trung Tâm


Trong vụ khủng hoảng, cường quốc kinh tế số một Âu châu là nước Đức đang giữ vị trí bản lề.

Kinh tế Đức lệ thuộc vào xuất cảng đến 50% nên cần bảo vệ đồng Euro và sự ổn định của kinh tế Âu châu để còn có nơi bán hàng. Thủ tướng Angela Merkel biết mình muốn gì cho nước Đức. Nhưng ưu tiên của bà lại khác với ưu tiên của các nước kia. Cử tri Đức ủng hộ bà trong một chừng mực nhất định để cứu đồng Euro, nhưng không muốn tiếp tục chi tiền cho giải pháp cấp cứu tốn kém ấy. Đấy là một ưu tiên khiến Đức thủ vai ông Ác và lắc đầu trước những đòi hỏi xoá nợ của Hy Lạp. Đã xóa cho xứ này thì tại sao không xoá cho xứ khác, như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Và xóa đến bao giờ?

Huống hồ, Đức còn có một ưu tiên cao hơn vậy.

Làm sao khoanh vùng vụ khủng hoảng Ukraine để duy trì quan hệ tương đối thân hữu với Liên bang Nga, một nguồn cung cấp năng lượng và một thị trường đầu tư có lợi cho kinh tế Đức? Giữ vị trí bản lề trong vụ khủng hoảng Euro, Thủ tướng Merkel phải đặt trên bàn cân của mình những tính toán về lợi hại cho nước Đức, cân nhắc giữa nhu cầu bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, an ninh của Âu châu và sự toàn vẹn của đồng Euro.

Vì những tính toán phức tạp ấy, Đức có thể lấy những quyết định làm xứ khác nổi điên. Nổi điên như Chính quyền cực tả của tập hợp Syriza tại Hy Lạp khi nói chuyện nhạy cảm là Hitler và Đức quốc xã! Chẳng lẽ bà Merkel không hiểu gì sao?

Bà rất hiểu nên muốn cầu hòa với Tổng thống Vladimir Putin của Nga - làm Ukraine giật mình và nhìn qua Hoa Kỳ - để mình rộng tay giải quyết chuyện Euro. Thà là Hy Lạp ra khỏi hệ thống Euro còn hơn là để cả kiến trúc của Liên Âu bị lung lay. Dường như những người trong cuộc có thể biết nhiều chuyện, mà không thể có giải pháp vẹn toàn.

Như chưa đủ nhức đầu, xin hãy châm thêm hồ sơ Iran trong cảnh rối bù này.



Liên bang Nga và Iran


Nhìn từ giác độ của Tổng thống Putin, việc tấn công Ukraine chỉ là... thế thủ!

Sau khi Liên Xô tan rã, sự bành trướng của trào lưu dân chủ tại Đông Âu và Trung Âu khiến hệ thống phòng thủ của Minh ước Bắc Đại Tây Dương NATO lặng lẽ Đông Tiến tới sát biên giới Nga. Khi đưa quân, và các nhóm "dân quân" thân Nga, vào Crimea và quậy phá các tỉnh miền Đông của Ukraine, Putin muốn lập ra vành đai bảo vệ, một vùng trái độn ngăn ngừa thế công của một cơ chế được Hoa Kỳ và Âu Châu lập ra từ thời Chiến tranh lạnh để giữ thế thủ.

Nghĩa là làm sao? Putin tấn công trước để tự vệ, chuyện không dễ hiểu mà rất dễ bị kết án!

Khi Tổng thống Ukraine là Petro Poroshenko cầu cứu Hoa Kỳ, Chính quyền Barack Obama bật tín hiệu là có thể cung cấp võ khí sát thương cho Ukraine. Có loại võ khí này là phải có lính Mỹ đến tận nơi để huấn luyện cách sử dụng. Với Putin, Mỹ sẽ tung quân vào Ukraine làm kỳ đà cản mũi. Chẳng cần đến NATO, vì Ukraine chưa là thành viên của minh ước phòng thủ này, Hoa Kỳ vẫn đẩy tấm khiên vào tới biên giới Nga.

Đã vậy, biên giới miền Nam của Nga cũng bị đe dọa khi Ngoại trưởng John Kerry gặp Ngoại trưởng Javad Zarif của Iran tại Geneva. Nếu Mỹ hòa dịu với Iran và giải toả dần lệnh cấm vận kinh tế, cái trục đối nghịch giữa hai nước có thể chuyển. Khi quyền lợi của đôi bên có được một số đồng thuận thì Putin không chỉ bị tấn công tại miền Đông, từ Ukraine, mà còn bị bao vây tại miền Nam. 

Chuyện quyền lợi tương đồng thuận giữa Tehran và Washington đã manh nha khi lực lượng ISIL xuất hiện và đe dọa cả nước Mỹ và các đồng minh, lẫn Iran và một đồng minh là chế độ Bashar al-Assad tại Syria. Đôi bên dẹp bớt mâu thuẫn để tập trung vào kẻ thù chung.

Đã vậy, với Putin thì ngoài Iran, Hoa Kỳ còn có nhiều cơ sở bành trướng khác như Saudi Arabia hay Turkey. Dân Mỹ nhìn vào chuyện ISIL theo một lẽ, Putin nhìn vào chuyện ISIL thì nghĩ đến Iran và Turkey, những cái chốt có thể khóa đường tiến của Nga xuống vùng biển nóng.

Chúng ta ra khỏi mê cung của Euro, hay phép chuyển hàng hai của Thủ tướng Merkel và những bấp bênh tại Ukraine. Nỗi lo sợ của Putin mới là vấn đề! Chưa kể đến nạn suy thoái kinh tế Nga khi dầu thô cứ tuột giá và trái phiếu Nga bị đánh sụt xuống loại giấy lộn...



Có Tiền là Có Quyền và Có Thế


Từ khi đắc cử, đám Syriza cực tả đã hứa chuyện viển vông với cử tri Hy Lạp vì tin là sẽ tống tiền các nước Âu châu để vừa xóa nợ vừa tăng lương mà khỏi phải cải cách kinh tế. Một tháng sau họ gặp thực tế phũ phàng là chẳng bắt được xu nào và có khi bị cử tri trừng phạt để bầu lên một đám cực hữu. Các lãnh tụ của Syriza không hiểu rằng muốn có quyền, hay ít ra có thế, thì phải có tiền, là điều họ không hề có.

Trong trận này, có quyền và thế vì có tiền, chính là nước Đức. Nhờ vậy mới đi nước đôi với Liên bang Nga là xứ có thế mà chẳng có tiền. Bị kẹt giữa hai sức ép là Ukraine thì chẳng có gì trừ lòng dân và chính nghĩa. Hình như điều ấy chưa đủ trong trò chơi phũ phàng của quyền lực.

Và ngần ấy kẻ trong cuộc đều nhìn vào Hoa Kỳ, tương đối là có tiền nhất, có dầu lại còn có cả súng. Nhưng Tổng thống Barack Obama còn tính chuyện khác nữa ở bên trong nước Mỹ. Những éo le này vào đầu năm Mùi mới là thách đố cho mọi người!

Ngày xưa, vào buổi đầu năm, các quan Thái bốc đều phải gieo quẻ cát hung cho Hoàng đế. Họ khấn vái Thần linh cho quốc dân thì ít mà cho bản thân thì nhiều vì đoán sai là mất chức, có khi mất mạng. 

Ngày nay, chẳng ai có thể bói ra ngần ấy chuyện vì có quá nhiều điều mà chính những người trong cuộc còn không thể biết hết. Và mỗi nước cờ hay động thái của họ lại làm nội vụ thêm rối bời vì phản ứng của người khác, hoặc của thị trường hình tròn như địa cầu và xoay vần với tốc độ điện tử 24 tiếng một ngày.

_________________________


Kết luận ở đây là gì?

Làm sao truyền thông có thể trình bày sự thể nhiêu khê như vậy trong một phút trên truyền hình hoặc qua nửa trang báo? So với thời xưa thì người nay biết đã nhiều hơn, nhưng thời nay sự việc còn rắc rối gấp triệu lần. Vì vậy, hãy nên nghi ngờ các lãnh tụ cứ làm ra vẻ biết hết và làm được mọi chuyện.
 

Và đừng tin vào chân lý chính thức của kẻ cầm quyền. Họ có thể đổi trắng thay đen!