Thứ Sáu, tháng 1 30, 2015

Thiện Và Ác Nghiệp Trong Kinh Tế



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 150129

Không nhìn vào Tiêu Sản là sớm Tiêu Tùng
















* Bàn toán Tầu và bạc cắc *


Trong buổi trà dư tửu hậu cuối năm, người viết bị hỏi một câu oái ăm. Làm sao dung hòa kiến thức về bộ môn quá vật chất là kinh tế học với những tín điều tâm linh là đạo Phật của mình? Câu hỏi khiến người viết nhớ đến Giáo sư Tôn Thất Thiện, vừa tạ thế hồi Tháng 10 năm ngoái. Vài năm về trước, khi thảo luận với nhau, có lần ông phát biểu là dù yêu thích triết lý Phật giáo, ông vẫn tự nghĩ là "vô thần" vì hiểu ra tầm quan trọng của kinh tế trong đời sống con người. Hình như có cái gì đó của đạo Phật không thích hợp với sinh hoạt kinh tế hay kinh tế học.

Bài này xin mở đầu về điều đó, như chuyện siêu hình mà thực dụng vào một buổi sang Xuân, sau đó mới là thời sự.


***

Một cách thông tục, ta có thể hiểu chữ "nghiệp" như một... bảng kết toán tài sản. Xin có vài chữ về chuyện kế toán đã.

Từ mấy trăm năm nay, có lẽ lần đầu tiên từ 500 năm trước, Tây phương áp dụng quy tắc "kế toán đối phần", nôm na là kế toán có hai phần cân đối. Hãy tưởng tượng đến bảng số hình chữ T (in) gọi là "trương mục", hay account, chữ Hà Nội thời nay gọi là "tài khoản". Góc bên trái là "tích sản" hay assets, là danh mục các tài sản mình sử dụng để tạo ra của cải trong tiến trình sản xuất hay kinh doanh. Góc bên phải là "tiêu sản", hay liabilities cho biết xuất xứ của các loại tài sản ấy, có thể là vốn riêng hay là đi vay, từ dài đến ngắn hạn. Mà đã vay là phải trả, trừ phi ta đi vào kinh tế học xã hội chủ nghĩa.

Trong tiến trình sản xuất là vận dụng "tích sản" để tạo ra của cải – rồi đem bán để thu về lợi tức – ta cần nhớ đến cái giá để có được những tài sản ấy, tức là nhìn qua bên phải, vào phần "tiêu sản", có những khoản đi vay sẽ phải trả, cả vốn lẫn lời. Nôm na cho dễ nhớ thì nếu tích vào ít mà tiêu ra nhiều, ta sẽ lỗ vốn - và lỗ mãi thì sẽ xập tiệm.

Xin độc giả chịu khó theo dõi tiếp chuyện khô khan này, vì sắp gặp chuyện khó khăn nữa: Từ bản kết toán như tấm ảnh về tình hình tài sản vào một thời điển nhất định, ta đi xa hơn một bước vào các nghiệp vụ hoạt động được bút ghi trong kế toàn, khi ấy mới có chuyện "tá" hay credit là mượn vào và "thải" hay debit là chi ra.

Khi nghe nói đến vấn đề tâm linh hay luân lý là "tích đức" thì làm sao ta dung hòa được với môn kế toán lạnh lùng trên? Thật ra, khái niệm "tích đức" ấy mới là chìa khóa.

Có những người cả đời không hề nghĩ đến ai khác hơn là chính mình. Họ tận dụng tích sản và thải tối đa cho bản thân mà khỏi cần cho ai khác. Đến cuối đời, trước khi nhắm mắt thì "trương mục kế toán cuộc đời" chỉ toàn dấu âm.

Họ mang nợ tới cõi âm, qua đời sau - hoặc dồn nợ cho con cháu.

Sống là chia sẻ, và càng tạo lợi ích cho người khác là càng tích tụ công đức cho chính mình, gia đình và con cháu đời sau. Càng nhận lãnh nhiều của thiên hạ mà không trả cho ai khác ngay trong kiếp này là càng mang nợ đến đời sau.

Cũng vì vậy mà người viết  hay nói đùa với một ông bạn Công giáo rằng "Thầy Hai của ông là một Siêu Kế Toán Trưởng". Là người ngoan đạo, ông lại thường gọi Thiên Chúa rất thiêng liêng ở trên kia là "Thầy Hai"!

Khi thấy các doanh gia cự phú Hoa Kỳ phân phối tài sản bạc tỷ cho việc thiện, cho người khác, ta hiểu ra quy luật kế toán tâm linh: họ tích đức. Cho nên, việc kiếm tiền không hẳn là đi ngược với giáo lý nhà Phật nếu ta hỏi thêm, là để làm gì, cho ai?.... Một người tu hành không hề nghĩ đến việc kinh doanh – thành phần này không phải là hiếm, ai ơi đừng chớ bi quan! - vẫn có thể tích đức để giải nghiệp - là trả nợ - cho mình và cho người khác, qua lời cầu nguyện hay việc làm hữu ích cho tha nhân.

Vào Xuân mà triết lý vụn như vậy về kinh tế học của công đức thì chắc cũng đủ. Xin đi vào thực tế nợ nần ở ngoài đời....

***


Trong thế giới ngày nay, hàng ngày thời sự cứ nhắc đến vấn nạn kinh tế là nhiều quốc gia mắc nợ quá cao, bên tiêu sản chỉ là toàn là nợ, liabilities. Trong hoàn cảnh đó làm sao sử dụng tích sản assets cho hiệu quả để còn trả nợ?

Đa số các nhà quản trị kinh tế hay lý luận về kế hoạch đều tập trung vào kỹ thuật vận dụng tích sản, như đầu tư vào đâu thì có lợi nhất khi tạo ra việc làm và nâng cao lợi tức cho dân chúng? Người phàm như chúng ta có thể nhớ đến thành ngữ "cái khó nó bó cái khôn". Vì cái khôn bị bó khi mắc nợ quá nhiều nên chánh sách cứu nguy của các nền kinh tế mắc nợ nhiều nhất hiện nay, như Nhật Bản, Âu Châu và Trung Quốc, cứ loay hoay với cái vế kích thích sản xuất.

Họ chỉ nhìn vào tích sản và tụt dần trong cách ước đoán tương lai.

Giải nhất về khả năng đoán trật phải được giành cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF khi định chế này thường xuyên hạ thấp dự báo về sức tăng trưởng của kinh tế toàn cầu, trong đó có ước tính quá lạc quan về sản lượng kinh tế Trung Quốc hay Liên Âu. Giờ này, chả còn ai nhớ quái truyện năm ngoái là dự báo của IMF rằng kinh tế Tầu vừa qua đầu kinh tế Mỹ nếu tính theo phương pháp tỷ giá mãi lực của đồng bạc, gọi là PPP!

Nhưng nếu để ý đến kinh tế học kiểu Phật giáo – chữ nói bừa của người viết – ta có thể lật ngược vấn đề mà nhìn qua "tiêu sản". Hãy tìm hiểu về cơ cấu của các khoản nợ đã tích lũy từ lâu, chính là núi nợ ấy mới cản trở mọi nỗ lực cải cách hay kích thích kinh tế!

Đầu đuôi câu chuyện là như thế này: trong nhiều thập niên liên tục, kinh tế Nhật Bản, Âu Châu và nhất là Trung Quốc vì thuộc phái tân tòng - đến sau nên tưởng bở - đã dồn sức đầu tư vào xây dựng hạ tầng, kỹ nghệ chế biến và xuất cảng để đạt mức tăng trưởng cao. Khi thấy tăng trưởng như rồng cọp và mọi người có vẻ khấm khá thì lại đi vay thêm để đầu tư nhiều hơn nữa, với niềm xác tín là nhờ biết vận dụng tích sản, họ thừa sức trả nợ bên tiêu sản.

Việc đi vay cũng như ta dùng đòn bẩy để vận dụng một vật gì đó nặng quá cái sức thật của mình. Mấy anh xã hội chủ nghĩa thì gọi đó là lấy ngắn nuôi dài - và chuyện gì cũng là miễn phí!.

Nhưng chính là sự lạc quan về quy trình sản xuất ấy khiến mọi người cho là tài sản của mình lên giá. Khi đi vay thì tài sản mang ra thế chấp có trị giá cao hơn nên được vay nhiều và dễ hơn. Tinh thần hồ hởi sảng đó làm người ta ước lượng sai yếu tố rủi ro trong các dự án. Cứ vậy mà vay cả tiền mua đòn bẩy và chất lên một núi nợ. Ở dưới là khối tài sản thế chấp người ta tưởng là có giá trị cao hơn.

Vả lại, sáng tạo theo kiểu Trung Quốc thì người ta sản xuất dư thừa, bút ghi trong kế toán quôc gia là "sản lượng", rồi cho nằm chất đống vì ế ẩm khi cung vượt cầu. Hàng dư mà bán không được, nằm ế trong kho, kế toán gọi là "tồn kho" – thì vẫn cứ kể là sản lượng. Đấy là hiện tượng nhà ma phố ảo bên Tầu. Nhưng cái ảo đó vẫn được thế giới ngợi ca là đà tăng trưởng!

Cả kiến trúc nguy nga đồ xộ ấy nằm trong ảo giác phát triển mà nhà Phật gọi là "vô minh". Người phàm như chúng ta có thể dịch là ignorance. Nôm ra là dốt!

Khốn nỗi, trị giá price, và giá trị value là hai chuyện khác nhau! Bậc kế toán trưởng nào đó trên trời hay trong thị trường thẩy đều phân biệt được hai chuyện ấy. Lãnh đạo Bắc Kinh thì không. Cho tới ngày giá trị của tài sản chỉ là kho hàng ế hay đống sắt rỉ thì trị giá của tài sản rớt như cục gạch, còn các khoản nợ lại tăng bên tiêu sản.

Người ta gọi đó là thời kiểm toán, reckoning, là khi kinh tế lao xuống vực: cả núi nợ chất ngất đè lên một khối tài sản mất giá. Đấy là lúc ta nhớ đến lời thánh Tầu: "Bất bình tắc minh". Nghiêng quá thì la thất thanh. Rồi đổ.

Điều ấy mới giải thích những lúng túng khá ồn ào của giới quản trị kinh tế.

Nếu không tiếp tục kích thích kinh tế để tạo thêm việc làm và tài sản, mọi người đều xuống vực. Nhưng biện pháp kích thích bên tích sản không giải quyết được bài toán trả nợ bên tiêu sản. Ngược lại, nếu nhịn ăn nhịn mặc để trả nợ thì tài hóa chẳng lưu thông và kinh tế bị giảm phát. Là chuyện đã xảy ra cho Nhật Bản và đang xảy ra cho Trung Quốc cùng nhiều nước Âu Châu.

Kết luận ở đây là một chân lý của kinh tế hay vạn vật: đồng tiền nó có hai mặt. Chỉ nhìn vào mặt bên này thì mình cứ khởi nghiệp và đến ngày phải giải nghiệp. Chẳng theo Phật giáo thì ta cũng có thể gọi đó là ngày trả nợ!

Mấy kinh tế gia có một chữ cho hiện tượng này, là deleveraging. Người viết này có chữ thô thiển hơn: gẫy đòn bẩy! Hay tiêu tùng...

Thứ Năm, tháng 1 29, 2015

Tương Lai Âu Châu Là Quá Khứ



Hùng Tâm - 150128
"Hồ Sơ Người Việt"

Ngân hàng Thụy Sĩ, ECB, Bầu cử Hy Lạp và Khủng bố  

* Thế giới Hồi giáo *


Đúng một tuần sau khi Tổng thống Barack Obama đọc Thông điệp Liên bang và ngợi ca sự phục hồi của kinh tế Hoa Kỳ, hôm Thứ Ba 27, thị trường cổ phiếu Mỹ bỗng rớt giá nặng. Các nhật báo đưa lý do lên tựa đề bản tin tài chánh: thị trường hoài nghi tình hình kinh tế! Thế là thế nào?

Nếu là tuần báo chuyên nghiệp thì người ta có thể mổ xẻ kỹ hơn nhiều sự thật sâu xa bên dưới các con số biểu kiến và nhất thời. Thí dụ như tỷ lệ thất nghiệp giảm nhưng lợi tức quá bẽ bàng của giới lao động hay thành phần trung lưu. Hoặc bất công xã hội tại Mỹ đang mở rộng vì giới tiết kiệm cò con bị móc túi với phân lời trái phiếu quá thấp. Nếu là nguyệt san, người ta có thể đào sâu hơn nhiều chuyển động cả kinh tế lẫn chính trị như vậy để không chụp lại một tấm hình mà trình bày một phim tài liệu. May ra thì người đọc có thể thấy được toàn cảnh.

Với tinh thần "làm phim", trên một cột báo hàng tuần, Hồ Sơ Người-Việt xin trở lại đề tài Âu Châu, rất hãn hữu khi vừa nhắc đến chuyện này vào tuần trước ("QE, ECB và Chủ nghĩa Quốc gia Âu châu - Khủng hoảng kinh tế có thể làm Liên Âu tan rã?").


Vì Sao Nói Về Âu Châu?


Lý do của chuyện đặc biệt này có thể kể ra rất nhiều, từ gần đến xa:

1)     Vì quyền lợi sinh tử của mình mà một xứ văn minh, giàu có và trung lập ở giữa tâm điểm Âu Châu là Thụy Sĩ đã lấy một quyết định tài chánh có tính cách thách thức và bất lợi cho cả khối Liên hiệp Âu châu gồm 28 nước vây quanh. Và làm Âu châu rúng động.
2)     Sau nhiều năm lần lữa vì thiếu thống nhất về chánh sách, Ngân hàng Trung ương Âu châu ECB đành lấy một quyết định tài chánh và chính trị là sẽ bơm ra hơn một ngàn tỷ Euro trong 18 tháng tới - và có khi còn bơm thêm, lâu hơn – để cứu nguy khối Euro của 19 nước.
3)     Ba ngày sau, cử tri của một quốc gia lâm nguy nặng nhất khối Euro là Hy Lạp đã bầu ra một chính quyền mới, với sứ mệnh phủ nhận giá trị của các kế hoạch cứu nguy từ sáu năm qua mà đòi thương thuyết lại, làm cả Âu Châu đều hốt hoảng.
4)     Trong khi đó, biên vực miền Đông của Âu Châu là Ukraine bỗng nháng lửa vì các cuộc giao tranh quanh thành phố Mariupol giữa quân đội của chính quyền hợp pháp tại Kyiv và các nhóm phiến quân ly khai người Nga do Liên bang Nga yểm trợ. Chữ Ukraine có nghĩa là "biên vực"!
5)      Giữa biến động kinh tế (Euro) và quân sự (Ukraine), lại có mối nguy sinh tử của nạn khủng bố từ nhiều hệ phái tôn giáo và lực lượng võ trang khác nhau. Họ cùng theo đuổi một mục tiêu là đánh gục Âu Châu từ bên trong để xây dựng một thế giới Hồi giáo.

Trước thời sự dồn dập như vậy trong có ba tuần, từ vụ Charlie Hebdo tại Paris hôm mùng bảy đến chuyện Hy Lạp tuần nay, báo chí chỉ có thể nháng lên từng bản tin cấp thời, theo hướng này hướng khác – thí dụ là bảo thủ như tờ The Times tại Anh, Figaro của Pháp, hay thiên tả như Guardian của Anh hoặc Le Monde tại Pháp - làm chúng ta khó thấy ra toàn cảnh.

Và sẽ lại bị bất ngờ nữa.


Toàn Cảnh Âu Châu Là Gì?



Tùy vị trí và giác độ, người Việt nhớ đến những tiếp xúc đầu tiên của nước Nam với Âu Châu là qua các thương nhân Hoà Lan hay giáo sĩ Bồ Đào Nha vào thế kỷ 16, trước khi Đà Nẵng bị quân Pháp nã đạn vào một năm Mùi 1859, rồi bị trôi vào ách thực dân. Những "tiếp xúc" ấy làm nước ta hoàn toàn thay đổi. Dân ta đấu tranh vì chủ quyền, dùng chữ "quốc ngữ", ước mơ cách mạng, rồi hy sinh vì dân chủ, v.v... - theo những quy ước hay phương pháp mình học được từ Âu Châu.

Ra khỏi bản tin của nhật trình và vượt khỏi tầm nhìn vào Châu Á, ta nhớ lại là từ khi Columbus người Âu khám phá "Tân Thế Giới" năm 1492 đến ngày Liên bang Xô viết tan rã cuối năm 1991, trong 500 năm thế giới đã sinh sống và còn chém giết vì những gì xảy ra tại Âu Châu. Nổi bật là trận Đại chiến 1914-1918, sau được gọi lại là Thế chiến I vì còn có Thế chiến II (1939-1945) cũng bắt nguồn từ Âu Châu. Nước ta đang lãnh di sản 1945 đó, sau những tư tưởng hồ đồ của một trí thức Âu châu là Karl Marx!

Nếu chịu khó, ta còn có thể biết thêm về Âu Châu như sau:

Âu Châu là vùng bán đảo và quần đảo ở phía Tây của đại lục địa Âu Á. Phía Bắc, sau các nước Bắc Âu là lên tới Bắc Cực. Phía Đông là một phần tư Âu hoá nhất của nước Nga. Giới hạn miền Nam là Địa Trung Hải. Bên trong Âu Châu lại có nhiều dị biệt và cách trở, nguyên do của cả ngàn năm xung đột để tiến tới sự hình thành của các quốc gia. Đó là về địa dư.

Theo tôn giáo và văn hóa Thiên Chúa Giáo, Âu Châu có hơn ngàn năm tiếp xúc, chinh chiến, hợp tác rồi khuất phục thế giới Hồi giáo.

Cánh tả Âu Châu, và Hoa Kỳ, thường mang mặc cảm mà cho là Âu Châu và Công giáo đã "gieo gió" khi gây hấn với Hồi giáo từ chuyện Thập Tự chinh rồi khuất phục thế giới Hồi giáo từ đầu Thế kỷ 20 khi Thế chiến I kết thúc. Vì vậy, ngày nay Âu Châu mới "gặt bão" là bị khủng bố Hồi giáo. Sự thật nó rắc rối hơn vậy: Âu Châu quả là có tội mà cũng có công với thế giới.

Nếu nhìn xa hơn cánh tả, và phải như vậy, thì ta nhớ là các sắc tộc theo Hồi giáo đã chiếm đóng một khu vực rộng lớn ở miền Nam Âu Châu từ Thế kỷ 8. Năm 732, nếu Charles Martel, ông nội của Charlemagne, không chặn làn sóng Hồi giáo từ nặng Pyrénées đổ xuống vùng đất sau này là nước Pháp thì có khi... dân Paris ngày nay đã theo đạo Hồi.

Sự thật thì Hồi giáo từng chinh phục một lãnh thổ rộng lớn, từ Maroc xuống Tây Phi, từ Bắc Phi qua Đông Phi, từ Trung Đông đến Trung Á, Nam Á và cả Đông Nam Á (Chiêm Thành ngày xưa, hay các quốc gia hiện đại hơn như, Nam Dương, Mã Lai Á, Phi Luật Tân, v.v....) Chính thế giới Hồi giáo ấy đã đóng chốt Âu Châu vào năm 1453, khi Constantinople của Thiên Chúa Giáo rơi vào tay Đế quốc Ottoman theo Hồi giáo. Và gây phản ứng dội ngược là phong trào Phục Hưng Renaissance. Từ đó mới có cách mạng văn hóa, tôn giáo rồi chính trị bên trong Âu Châu.

Phản ứng kia còn "toàn cầu" hơn vậy. Bị Hồi giáo phong toả và không thể Đông tiến quá Địa Trung Hải để tới Ấn Độ hay Trung Hoa nên Âu Châu phải tìm ngả khác.

Trước tiên, hai nước Công giáo trong bán đảo Iberia (từng bị Hồi giáo chinh phục) và tiếp cận với thế giới Hồi giáo ở ngay Bắc Phi, là Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, bèn dong buồm thám hiểm. Cả hai đều thực tin là có Thiên Chúa độ trì trong nỗ lực lớn lao và mới mẻ này.

Bồ Đào Nha men theo Phi Châu, vòng qua Mũi Hảo Vọng ở cực Nam Châu Phi mà tìm đến Ấn Độ Dương, xuống gần tới Úc và lên tới... Đài Loan. Mỗi chuyến hải hành là một cải tiến kỹ thuật hàng hải. Chữ quốc ngữ của ta mang nhiều ký hiệu Bồ Đào Nha cũng vì lẽ đó.

Khó cạnh tranh với Bồ Đào Nha đã ra khơi từ trước, Tây Ban Nha yểm trợ Columbus đi tìm Ấn Độ bằng hướng Tây, khám phá ra Mỹ Châu nên gọi lầm dân bản địa là Indians. Từ đó, thiên hạ mới có chữ "Mỹ châu La tinh". Chuyện ấy, sau này trở thành lịch sử.

Vì thế, "toàn cảnh" từ 500 năm trước cho thấy một tương quan khác giữa Âu Châu theo Thiên Chúa giáo với Thế giới Hồi giáo. Cái khác là ngày nay, dân Âu Châu mất dần đức tin tôn giáo nên ngẩn ngơ về tinh thần tín ngưỡng đến độ cuồng tín và hiếu sát của các nhóm Hồi giáo cực đoan.

Đây là lúc ta trở về "Nội cảnh" của Âu Châu.


Nội Cảnh Âu Châu Là Gì?


Địa dư Âu Châu có hai đặc tính đầy mâu thuẫn là trống trải với bên ngoài và hiểm trở ở bên trong.

Trống trải như nước Đức vì không có sông ngòi hay núi rừng bảo vệ trước sức ép từ miền Tây của Pháp hay từ miền Đông của Nga. Trống trải như khi nhìn ra Địa Trung Hải, một cái ao nhỏ của thế giới "toàn cầu hóa". Hãy tưởng tượng là nếu thuyền nhân của ta mà chỉ phải vượt Địa Trung Hải để tìm tự do thì có lẽ đã làm Âu Châu đổi khác! Chuyện ấy làm ta suy nghĩ lại về vấn đề di dân và an ninh Âu Châu.

Hiểm trở bên trong là vì núi non hay sông ngòi chia cắt địa dư Âu Châu thành từng khu vực biệt lập chứ không "núi liền núi sông liền sông" như Hoa Kỳ. Sự biệt lập tự nhiên của hình thể khiến từng sắc dân có thể bảo tồn căn cước hay bản sắc riêng và sự hình thành của "quốc gia" đòi hỏi sự hội nhập của nhiều cái "riêng" thành cái "chung". Trong thực tế của người dân bình thường, chữ hội nhập ấy cũng có nghĩa là chiến tranh và những đổi thay ranh giới, vài chục năm lại có một lần. Khi chủ nghĩa quốc gia càng là chân lý phổ cập thì chiến tranh càng hung bạo.

Các trận chiến thời Napoléon từ cuối Thế kỷ 18 qua đầu Thế kỷ 19 là điển hình nóng bỏng nhất. Đại đế Napoléon là bậc anh hùng làm nên nước Pháp hiện đại nhưng cũng khiến Âu Châu và Pháp cùng xuất huyết. Dân Tây có thể nghĩ đến ông như một Charlemagne, dân Nga coi ông ta là Hitler, dân Đức hay Đông Âu thì nghĩ đến Staline!

Sau cả ngàn năm chinh phạt vì đủ loại lý do hay chính nghĩa bên trong Âu Châu như vậy, cao điểm của sự hội nhập hay thống nhất là sự hình thành của "quốc gia" Đức: ba lần tấn công nước Pháp vào các năm 1870, 1914 hay 1939. Hai lần cuối là hai trận Thế chiến tàn khốc nhất của thế kỷ 20. Cái giá mà Âu Châu phải trả mỗi lần đó là chừng 100 triệu người chết.

Vì vậy mà nước Đức mới bị cưa đôi và chỉ thống nhất với sự tan rã của một Đế quốc Âu châu là Liên bang Xô viết, khi Âu Châu đã đi vào tàn tạ.

Người dân Âu Châu không thể không thấy ra những phũ phàng lịch sử như vậy, cho nên từ 70 năm nay (1945) hay từ khi Liên Xô sụp đổ (1991) đã cố xây dựng một quy ước sống chung cho hoà bình và thịnh vượng. Hoà bình là Liên hiệp Âu châu, và Thịnh vượng là Khối Euro.

Quy ước đó đang chậm rãi phá sản trước mắt chúng ta.

Gần gũi và được tường thuật hàng ngày là sự thịnh vượng ấy bị đe dọa với vụ khủng hoảng Euro - và phản ứng dễ hiểu mà đáng sợ là sự hồi sinh của chủ nghĩa quốc gia dân tộc. Tương lai có khi là quá khứ của nạn ngăn sông cấm chợ với tầm vông dáo mác?

Chẳng vì vậy mà các nước Âu Châu sẽ giao chiến với nhau. Liên Âu không có lực lượng công an thuế vụ vào Quốc hội hay bộ Tài chánh Hy Lạp kiểm soát việc chi tiêu của xứ này. Vả lại, hòa bình là ước mơ chung.

Nhưng hòa bình bị đe dọa khi Liên bang Nga đã tấn công Ukraine, uy hiếp ba nước Cộng hoà Âu châu trên vùng biển Baltic và đóng chốt tại vùng biển Caspian. Hòa bình càng bị đe dọa với làn sóng Hồi giáo đã thẩm thấu vào xã hội Âu Châu, như những tế bào ung thư đến hồi phá tác....

Trong khi đó, Âu Châu lại hết muốn đẻ con, dân số cứ lão hóa dần. Và co cụm dần.

_____________________________

Kết luận ở đây là gì?


Nếu chỉ nghĩ đến quyền lợi ngắn hạn và có khả năng tài chánh thì nên... đầu tư theo hướng suy sụp của đồng Euro.

Nếu nhìn xa hơn vậy thì nên sớm đi... du lịch Âu Châu. Sau này, các đền đài hay miếu mạo gì ở nơi đó cũng sẽ đổi dạng.

SOTU, Sở Từ, Sở Tù và Sổ Toẹt



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Sống 150128
"Vùng Oanh Kích Tự Do" 

Tản mạn về tình trạng lung tung của nước Mỹ 

 * Obama dưới nét vẽ tuyệt diệu của Michael Ramirez trên nhật báo IBD *




Khách có kẻ tinh quái hỏi người viết về bài diễn văn năm nay của Tổng thống Barack Obama về Tình hình Liên bang. Đó là văn kiện thường được truyền thông Hoa Kỳ viết tắt là SOTU – State of the Union. Biết khách chơi đểu, người viết cứ tỉnh như con ruồi mà dẫn qua mục khác.

- SOTU ấy à? Làm tớ nghĩ đến "Sở Từ" của Khuất Nguyên - và nhiều điềm tiêu vong!

Quả nhiên, khách xoa cái đầu trọc lóc mà trầm ngâm về thi hào đất Sở đã từ trầm dưới sông Mịch La vì nước nhà tan nát!

Khách của người viết này vốn đều là tử tế mà không hiền lành – chả vậy mới là khách! – bèn hỏi tiếp: Từ chuyện SOTU mà các hạ dẫn đến điềm suy bại. Sao lạ vậy?

- Xin giải thích sau, Tết nhất rồi mà!

Không cho mình chạy, khách gặng hỏi nữa. Kẻ viết này bèn rắp tâm "đánh đuổi chầu rìa"- chữ của Quỳnh Giao trên bàn mạt chược. Là cứ pháo trật mục tiêu cho bên ngoài nản chí mà bỏ đi.

- SOTU ấy à? Đấy là "Sở Tù" – xin anh em xếp chữ đừng lầm typo mà gõ sai.

Rồi nhìn mấy vết sẹo của khách mà giải thích: Đấy là cách gọi mấy người tù vang danh kim cổ vì giữ tiết tháo khi ở trong tù. Tích này dẫn từ một chuyện xa xưa, đời Xuân Thu bên Tầu.

Có người Chung Nghi nước Sở bị nước Tấn cầm tù. Trong ngục, lúc nào ông cũng đội mũ dân Sở, ở phương Nam nước Tấn. Dù mũ rách vẫn giữ cách Nam phương để khỏi quên xứ sở. Vua Tấn thấy lạ bèn đến tận nơi xem. Rồi tỏ vẻ kính trọng mà phóng thích cho Chung Nghi về Sở.

Từ cái điển tích ấy đời sau mới có chữ "Hà chí tác Sở tù, tương đối khấp dã?" - Họ lâm cảnh tù người Sở mà nhìn nhau khóc sao? Khách ngậm ngùi hỏi lại vì nhớ cảnh văn minh thời nay, khi dân một nước được đảng ta cải tạo! Hẳn vậy....

Trong trại tù sau năm 1975 thì mọi quy ước của chế độ cũ đều bị xoá sạch, đã đành là hết lon lá đồng phục, mà cách xưng hô với nhau cũng đổi. Và ngồi khóc với nhau còn thêm tội nặng hơn nữa. Biệt giam xuống một tầng thấp hơn của địa ngục.

Chế độ văn miêng này áp dụng quy luật khoa học của Pavlov để tù trong hay tù ngoài đều thành hài nhi - suy nghĩ theo bản năng, bằng cái bao tử. Tù trong hay tù ngoài, tù miền Bắc trước 1975 hay tù miền Nam sau này đều chung số phận. Và dĩ nhiên là chẳng được tha để về nước. Nước mình đấy chứ, còn nước nào khác mà về?

- Đầu Xuân đón Tết, sao các hạ cứ nói chuyện buồn? Khách bồi hồi cạn luôn nửa chai rượu!

- Tết hả? Ta đổi đề tài mà nói về Tết Mậu Thân 1968 chăng?

Độc giả nào muốn con cháu nhớ lại trò tráo trở đã vấy máu vào Tết của Ta thì nên đọc lại "Giải Khăn Sô Cho Huế" của Nhã Ca. Và phải mua cho con trẻ bản dịch công phu của Tiến sĩ Olga Dror, "A Mourning Headband for Hue" do Amazon phổ biến: cuốn sách vừa được đưa vào chương trình giáo khoa của Hoa Kỳ để từ nay sinh viên tại Mỹ khỏi ngu ngơ hiểu lầm nữa.

Thấy khách còn hậm hực với chai rượu, người viết bèn dứt điểm bằng thơ Vũ Hoàng Chương:

Rực tiếng cuồng phong tắt đáy chai!

Khác bèn tắt tiếng trong nỗi gầm gừ.

***


Nhờ đó mà ta trở lại chuyện SOTU và cái lẽ vu vơ của Obama. Như thế này....

Đại Hàn Dân Quốc, nước Nam Hàn, vừa ra cuốn Bạch thư về Quốc phòng với một chi tiết bị đời quên, là hoả tiễn liên lục địa Bắc Hàn có thể bắn tới Hoa Kỳ. "Đời" ở đây là dàn bồi bút đã soạn bài diễn văn cho Obama.

Hiển nhiên là lũ ngu phu này còn quên một hay nhiều chuyện khác.

Hải quân Hoa Kỳ có một chiến hạm nghiên cứu điện tử, nôm na là tầu do thám, trên quân bạ thì còn khiển dụng, commissioned, mà định vị ở một nơi hơi lạ: 38°59.4683 N 125°43.5173 E.

Nhờ ông bạn coi bản đồ mà chấm tọa độ thì mới biết chiếc USS Pueblo ấy đang nằm ụ tại Bắc Hàn. Trong Viện Bảo tàng Quân đội Cộng hòa Nhân dân Dân chủ Triều Tiên. Đấy là chiến lợi phẩm của chế độ cộng sản Bình Nhưỡng, mà mọi công dân phải vào xem để thấy sự vĩ đại của lãnh tụ, nét hào hùng của Quân đội Nhân dân, và chất bạc nhược của Mỹ đế!

Chuyện xảy ra ngày 23 Tháng Giêng năm 1968, vài ngày sau khi Johnson đọc bài SOTU, và đúng một tuần trước khi Cộng quân mở chiến dịch Tổng phản trắc Mậu Thân.

Năm đó, nơi vùng biển đối diện với bán đảo TriềuTiên, chiếc USS Pueblo đang thi hành công vụ nghe ngóng trong hải phận quốc tế thì bị Bắc Hàn tấn công, bằng tầu ngầm, chiến đấu cơ và pháo hạm. Rồi bị tịch thu. Hạm trưởng Lloyd Bucher cùng thủy thủ đoàn 82 người gặp phận "cải tạo". Họ cũng bị tra tấn và bỏ đói gần 11 tháng rồi mới được thả sau khi Chính quyền Johnson trực tiếp thương thuyết với Bình Nhưỡng - mà cóc cho đồng minh chiến lược là Nam Hàn can dự!

Mãi sau này, tư cách anh hùng của các "tù binh" Mỹ từ một trận chiến không khai chiến mới được Quân lực Mỹ công nhận, nhưng sau khi một số bị kết án oan là không nổ súng kháng cự. Họ là những "Sở Tù" của thời đại mới.

Khách nghe kể chuyện xưa lại thấy bần thần, làm chai rượu thất thần!


***

Năm 1968 đó, nước Mỹ quả là có loạn héng?

Ngay sau bài SOTU của Johnson là vụ 31 đặc công Bắc Hàn đục núi qua khu Phi quân sự Nam Bắc Hàn để đòi tấn công Thanh Cung, trụ sở Hành Pháp hay Phủ Tổng thống Nam Hàn. Sau đó là vụ USS Pueblo bi thảm,  rồi trận Mậu Thân Việt Nam. Và nhiều biến động toàn cầu khác.

Đầu Xuân Mậu Thân 68 là các cuộc biểu tình có bạo động cho dân quyền ngoài đường phố hoặc chống chiến tranh Việt Nam trong học đường Mỹ. Cuối Tháng Ba, nạn nhân phương xa của vụ Mậu Thân chính là Johnson. Chột dạ mà tuyên bố không ra tái tranh cử Tổng thống!

Năm đó Hoa Kỳ đồng ý hòa đàm với Hà Nội, lại chọn nơi đàm phán là Paris, thành phố sắp rơi vào bão loạn của phong trào sinh viên cực tả, với hệ thống ngoại giao và chính trị thiên Liên Xô và ghét Sàigòn ra mặt! Ít ai biết vụ sinh viên ngu ngu nổi loạn tại Paris khiến Tổng thống Charles de Gaulle lén bay qua Đức hỏi ý các tướng lãnh Pháp đang chỉ huy lực lượng Pháp ở bên Đức!

Xét lại thì Tổng thống Johnson quả là xứng tài Triệu Loan. Là đánh loạn chiêu, khi chọn Paris là nơi hòa đàm! Tội cho Việt Nam Cộng Hoà xa xăm khi xả thân chống đỡ hai đợt kế của Mậu Thân.

Năm 68 đó ở bên Mỹ thì lãnh tụ dân quyền của người da đen là mục sư Martin Luther King Jr. bị ám sát ngày bốn Tháng Tư. Hai tháng sau, Nghị sĩ Robert Kennedy bị hạ sát khi đi tranh cử Tổng thống tại Los Angeles. Cuối Tháng Tám, Đại hội đảng Dân Chủ tại Chicago là trường hỗn chiến giữa cảnh sát với nhiều phe phái. Hỗn nhất là bọn phản chiến.

Năm đó, giữa chiến tranh lạnh của Tây phương với khối Cộng sản, Hoa Kỳ phơi bày hình ảnh thê thảm của tư bản chủ nghĩa. Liên bang Xô viết không lỡ dịp. Tháng Tám 1968 Hồng quân Xô viết đưa chiến xa vào Tiệp Khắc dập tắt Mùa Xuân Praha. Hạ màn dân chủ và ước mơ độc lập!

Đấy là lúc ban Rolling Stones tung ra bài ngợi ca Satan! Bản "Sympathy with the Devil" là thứ quốc thiều mới cho giới trẻ, lúc đó đang say sex và cần sa ma túy....

Sau đấy mãi một phần tư thế kỷ, cuối năm 2004, nhà báo Mỹ Mark Kurlansky mới tìm ra chữ cho cái năm độc địa này: Một Năm Chấn Động Địa Cầu. Xin tìm đọc lại cuốn "1968, The Year That Rocked The World" xuất bản vào đầu năm 2005.


***


Thấy người viết này luận sử, khách bèn chuyển bại thành liệt. Nằm một đống.

Đấy là lúc bạn đọc cầm tờ báo Sống như màn ảnh truyền hình mà fastforward vào năm nay. Bốn phương khói lửa tưng bừng, kể ra không hết. Mà Obama nói đến mối nguy chiến lược nhất là nạn.... nhiệt hóa địa cầu.

Người viết có một chữ khác cho SOTU năm nay: Sổ Toẹt! Gõ xong thì bật khóc - và nói ngọng!

Ụ Ẹ....