Thứ Tư, tháng 7 31, 2013

Các Nền Kinh Tế "Đang Lên" Đã Xuống

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa - Ngày 130731 
Diễn Đàn Kinh Tế RFA   

Trật Tự Mới Là Sự Bất Ổn, Phân Vùng Và Bảo Hộ  

000_Mvd1212224-305.jpg
* Từ trái qua: Tổng thống Nga Dmitri Medvedev, Tổng thống Brazil Luiz Inacio Lula da Silva, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng của Ấn Độ Manmohan Singh tại Hội nghị thượng đỉnh II BRIC tại Cung điện Itamaraty tại Brasilia, vào ngày 15/4/2010 - AFP photo


Người ta thường nói "đỉnh cao là dấu hiệu thoái trào". Điều ấy có thể đúng với các nền kinh tế đang phát triển - đứng đầu có nhóm B.R.I.C. là Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc - vì năm nay các nền kinh tế này vừa lên tới vị trí cao nhất về sản lượng thì lại có dấu hiệu sa sút, nhất là Trung Quốc. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu chuyện đó, với một số dự đoán về hậu quả cho Việt Nam.


Nhóm B.R.I.C

Vũ Hoàng: Xin kính chào tái ngộ ông Nghĩa. Thưa ông, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF thì năm nay là năm đầu tiên mà sản lượng của các nền kinh tế đang phát triển, hay "đang lên", đã lần đầu tiên chiếm tới phân nửa sản lượng toàn cầu nếu tính theo tỷ giá của sức mua PPP. Trong số này, có bốn nước đông dân là Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và Liên bang Nga, thường được gọi là nhóm B.R.I.C. Tháng Tư năm ngoái, tại thượng đỉnh của nhóm này ở thủ đô Ấn Độ họ còn nói đến nỗ lực lập ra một ngân hàng phát triển gọi là "Ngân hàng Nam-Nam", với triển vọng thay thế Ngân hàng Thế giới để yểm trợ các nước nghèo. Nhiều người nói đến một kỷ nguyên mới, khi các nước đang lên sẽ có vị trí quốc tế cao hơn nhờ tăng trưởng rất mạnh từ vài chục năm nay.

Thế rồi cũng năm nay, ta lại thấy có sự đảo chiều là tình trạng sa sút của các nền kinh tế đó, dẫn đầu là Trung Quốc với nhiều khó khăn của việc cải cách và đà tăng trưởng thấp hơn xưa. Vì vậy, xin đề nghị ông phân tích cho sự chuyển động khá đặc biệt này.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng ta không nên dựa trên kết quả ngắn hạn, như của một năm, để nhận định về sự chuyển động chậm rãi và mạnh mẽ của trường kỳ, nhưng cũng phải xét về những yếu tố cơ bản của sự chuyển động lâu dài này để phần nào dự đoán tương lai.

- Nói về trường kỳ thì trong ba chục năm, từ thập niên 60 đến 90 của thế kỷ 20, các nước nghèo đã có một số điều kiện phát triển khả quan hơn, chủ yếu nhờ việc thiết lập các định chế quốc tế nhằm yểm trợ đà tăng trưởng kinh tế sau Thế chiến II. Khi ấy, sức nặng của nhóm kinh tế này ở khoảng 30% của sản lượng toàn cầu, phần kia là của khối công nghiệp hoá Tây phương.

- Sau đó, quãng 20 năm trước, khi Liên bang Xô viết tan rã và quy luật thị trường được đa số áp dụng, từ Trung Quốc đến Ấn Độ hay Liên bang Nga, thì các nền kinh tế đang lên tăng vọt nhờ lực lượng lao động được giải phóng và nhờ tiếp thu kinh nghiệm của các nước đi trước. Vì khởi đi từ một mức thấp, các nước này có đà tăng trưởng cao và gây ra ấn tượng lạc quan.

- Sau đấy bước qua thế kỷ 20, là hơn chục năm trước, các nước công nghiệp hóa Tây phương đều gặp vấn đề vì vay mượn quá nhiều, vì lâm vào cuộc chiến chống khủng bố hoặc bị suy trầm như trường hợp Nhật Bản. Đấy là lúc người ta lạc quan nói đến sự lớn mạnh của các nước đang lên khi họ hết tùy thuộc vào các nước công nghiệp và nếu so sánh với sản lượng toàn cầu đã sa sút kể từ năm 2008 vì nạn Tổng suy trầm. Nếu cứ vạch một đường tuyến từ quá khứ vào tương lai thì quả là các nước nghèo đã trở thành "tân hưng", cường quốc kinh tế mới, có triển vọng đoạt ngôi vô địch của các nước tiên tiến và phát triển riêng với nhau.

Vũ Hoàng: Như ông thường nói trên diễn đàn này, tương lai không nhất thiết là đường tuyến vạch ra từ quá khứ và chuyện thay bậc đổi ngôi này lại không xảy ra. Nhưng trước hết, từ đâu lại có khái niệm về bốn nước được gọi tắt là nhóm BRIC này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Năm 2001, một kinh tế gia và Chủ tịch phân vụ Quản trị Tài sản của tập đoàn đầu tư Goldman Sachs của Mỹ là Jim O'Neill phát minh ra chữ B.R.I.C. là tên tắt của bốn nước có nền kinh tế đang lên của thế giới, là Brazil, Liên bang Nga, Ấn Độ và Trung Quốc. Có thể là vì tiện dụng khi ông ta chọn tên tắt cho dễ đọc như thói quen đã thấy. Riêng tôi còn ngờ là ông ta cần chiêu dụ thân chủ nên bày đặt quảng cáo về ưu điểm hoặc triển vọng đầu tư vào bốn nước đó. Thực tế thì chỉ là dán nhãn hiệu đẹp lên cái chai rỗng, sau đó mới đổ vào trong một nội dung thống nhất, hoặc một dung dịch có thể hoà tan mà không thành nhũ tương hay chất nổ. Thực tế thì các nền kinh tế này đang gặp khó khăn và năm ngoái mà họ đòi lập ra một ngân hàng phát triển cho các nước nghèo như ông nhắc tới thì đấy chỉ là sự hồ hởi sảng.

Thoái trào toàn cầu hóa  

000_Mvd1212242-250.jpg
Tổng thống Nga Dmitri Medvedev trong một cuộc họp báo nhân Hội nghị thượng đỉnh II BRIC tại Cung điện Itamaraty tại Brasilia, vào ngày 15/4/2010. AFP photo



Vũ Hoàng: Nhóm quốc gia này gặp khó khăn như thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết, đà tăng trưởng của Brazil chỉ còn có 2% một năm sau khi sụt tới mức 1% vào năm ngoái. Liên bang Nga thì chỉ tăng 2% một năm mặc dù đang có lợi thế là giá dầu thô mấp mé ở mức 100 đô la một thùng. Ấn Độ thì đã có tốc độ tăng trưởng cao là hơn 11% năm 2010 và gần 8% vào 2011 rồi năm ngoái chỉ còn có 4%, trong khi lại lo sợ hai tệ nạn là lạm phát và tham nhũng. Còn Trung Quốc thì đã hết đà 10% của ba chục năm liền và đang e ngại một vụ hạ cánh nặng nề trước khi bước vào một thập niên thoái trào. Mà không chỉ có mấy xứ đó, nói chung các nền kinh tế đang lên đã từng có mức tăng trưởng cao trong mấy năm qua đều đang bị suy giảm nặng, kể cả trường hợp của Việt Nam.

Vũ Hoàng: Thưa ông, vì sao lại như vậy, có phải rằng do những trở ngại nhất thời của kinh tế toàn cầu hay vì những lý do thuộc về cơ cấu?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lý do tại sao thì ta có chuyện nhất thời như ông hỏi, mà cũng có nguyên do thuộc về cơ cấu. 

- Trước hết là sau nạn Tổng suy trầm toàn cầu vào các năm 2008-2009, nhóm quốc gia này tung ra biện pháp kích thích và đạt mức tăng trưởng cao vào các năm 2010-2011 rồi thổi lên nguy cơ lạm phát nên phải giảm đà tăng trưởng kể từ năm ngoái. Thứ hai, là trái với sự lạc quan về khả năng phát triển tự túc mà khỏi cần các nước công nghiệp hóa, họ vẫn bị hiệu ứng bất lợi khi khối Âu-Mỹ-Nhật giảm đà nhập khẩu và bớt đầu tư ra ngoài. Thứ ba, nhiều nước đang lên đã kiếm lời nhờ bán thương phẩm, là nguyên nhiên vật liệu và nông sản, nhưng giá thương phẩm hết tăng mà bắt đầu giảm. Khi một xứ tiêu thụ thương phẩm quá lớn như Trung Quốc mà phải giảm đà sản xuất để điều chỉnh thì các nước xuất khẩu thương phẩm đều bị ảnh hưởng. 

- Một lý do nhất thời khác là ngân hàng trung ương Hoa Kỳ vừa bật ra tín hiệu là có thể đảo ngược quyết định bơm tiền với lãi suất rẻ thì các thị trường đang lên này đều bị chấn động, cổ phiếu và trái phiếu đều sụt giá. Đó là những chuyện có thể gọi là nhất thời.

Khi bùng nổ khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ và Âu Châu, cả nhóm BRIC lẫn nhiều xứ khác lầm tưởng rằng quy luật thị trường là vấn đề và nhà nước, cùng khu vực kinh tế của nhà nước, mới là giải pháp. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Vũ Hoàng: Tức là ngoài ra còn có những nguyên nhân thuộc về cơ cấu nữa hay sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng như vậy. Xưa kia, nhiều nước trong nhóm này vẫn đạt thặng dư trong trương mục vãng lai nay lại bị thiếu hụt, và họ tài trợ bằng tín dụng nên bị rủi ro lớn, thí dụ như Ấn Độ, Brazil, Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi. Họ còn vay ngắn hạn để tài trợ dài hạn hoặc tìm vào thị trường đen ở ngoài hệ thống ngân hàng và chất lên một núi nợ sẽ đổ là trường hợp nổi tiếng ở Trung Quốc với những khoản nợ xấu chẳng ai tính cho ra. Song song, còn nhược điểm khác về cơ cấu là bội chi quá lớn, rủi ro lạm phát quá cao và thiếu ổn định về vĩ mô.  Nhưng đáng chú ý nhất trong các nguyên do suy sụp là một chuyện mà Việt Nam nên để ý.

- Khi bùng nổ khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ và Âu Châu, cả nhóm BRIC lẫn nhiều xứ khác lầm tưởng rằng quy luật thị trường là vấn đề và nhà nước, cùng khu vực kinh tế của nhà nước, mới là giải pháp. Vì vậy, thay vì nâng đỡ tư doanh, họ lại tăng cường vai trò của nhà nước với ảo vọng xây dựng "chủ nghĩa tư bản nhà nước". Kết quả là nạn tham ô của hệ thống tư bản thân tộc, sự lãng phí của khu vực nhà nước khi được tài trợ theo diện chính sách, là phản ứng bảo hộ mậu dịch và kiểm soát tư bản hay ngoại hối để bảo vệ đặc quyền của các nhóm lợi ích. Các quốc gia này đi ngược những quy luật đã từng giúp họ tăng trưởng cao.

Việt Nam học được gì

000_Hkg8245987-250.jpg
Khách du lịch nước ngoài la cà quán vỉa hè ở Việt Nam. AFP photo

Vũ Hoàng: Chúng ta bắt đầu bước qua phần lượng định về hậu quả. Thưa ông, từ ngắn hạn đến dài hạn thì tình hình sẽ ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau 20 năm lạc quan về một trật tự mới của kinh tế thế giới với hiện tượng toàn cầu hóa sẽ đem lại thịnh vượng cho mọi quốc gia, chúng ta đang bước qua giai đoạn điều chỉnh khá bất thường. Trong giai đoạn ấy, tôi e là sẽ thấy nhiều đột biến bất ngờ. Một thí dụ là nếu dầu thô lên giá quá 120 đồng một thùng thì Liên bang Nga có lợi lớn vì là một xứ bán năng lượng mà Trung Quốc sẽ khủng hoảng. Trường hợp ngược lại là dầu thô sụt giá nếu kinh tế toàn cầu lại bị suy trầm khi Hoa Kỳ trở thành một nước bán dầu!

- Nói chung, hiện tượng toàn cầu hóa sẽ thoái trào như chúng ta đã trình bày trên diễn đàn này, mà phản ứng quốc gia cực đoan đi cùng trào lưu bảo hộ mậu dịch để bảo vệ quyền lợi riêng sẽ làm kinh tế thế giới thêm sa sút và nguy cơ xung đột càng gia tăng. Người ta cứ lầm tưởng rằng các nước buôn bán với nhau thì khó gây chiến, sự thật lại không lạc quan như vậy nếu ta nhớ tới Thế chiến I cách nay gần trăm năm với hậu quả lan rộng khỏi Âu Châu qua tới Châu Á.

- Quan trọng nhất, sau ba chục năm đã lạc quan tin vào sự lớn mạnh của Trung Quốc với dân số rất đông để là hãng xưởng ráp chế toàn cầu và nơi tiêu thụ thương phẩm của các nước nghèo, thế giới sẽ trải qua giai đoạn tôi xin gọi là "Trung Quốc thoái trào". Sự sa sút của nền kinh tế hạng nhì thế giới sẽ là một vấn đề về an ninh và kinh tế cho các nước, nhất là tại khu vực Đông Á.

Vũ Hoàng: Thưa ông, trong kịch bản gay go của giai đoạn thoái trào của Trung Quốc, Việt Nam đứng ở đâu và nên làm gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trung Quốc là xứ chưa giàu đã già và chưa hùng mà đã hung, Việt Nam nên học bài học ba chục năm cải cách rồi đứt gánh giữa đường của quốc gia láng giềng này.

Trung Quốc là xứ chưa giàu đã già và chưa hùng mà đã hung, Việt Nam nên học bài học ba chục năm cải cách rồi đứt gánh giữa đường của quốc gia láng giềng này. Nguyễn-Xuân Nghĩa
- Thứ nhất, chiến lược thu hút đầu tư và tìm đà tăng trưởng nhờ nhân công rẻ đã có ưu thế trong vài chục năm nhưng không vĩnh viễn. Các nước đông dân, kể cả Việt Nam có thể trám vào khoảng trống do Trung Quốc để lại, nhưng phải ý thức rằng lực lượng lao động với lương rẻ sẽ không là lợi thế lâu dài nên phải chú ý tới năng suất, giáo dục và đào tạo chứ đừng ép sức dân để làm giàu cho nhà nước.

- Thứ hai, với dân số khá cao, Việt Nam nên chú ý đến khả năng tiêu thụ nội địa thay vì chỉ nghĩ tới xuất khẩu khi kinh tế toàn cầu rơi vào phản ứng bảo hộ mậu dịch. Một giải pháp là ưu tiên cải tổ để mau chóng gia nhập hiệp định Xuyên Thái Bình Dương TPP. Trong việc cải cách, hãy học sự sai lầm của Trung Quốc mà phát triển tư doanh, đi theo quy luật tự do và sớm ra khỏi chế độ tư bản nhà nước. Nhìn về lâu dài thì Việt Nam nên thoát khỏi quỹ đạo Trung Quốc, chấm dứt sự lệ thuộc về chính trị và kinh tế vào thế lực của họ theo khái niệm sai lầm là "Đồng thuận Bắc Kinh". Đây là một cơ hội không nên bỏ lỡ để khỏi chết chùm với Trung Quốc.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa đã trả lời từ California.


 
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này

Thứ Ba, tháng 7 30, 2013

Hoa Kỳ Dung Tam Tế


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt 130729
"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài"

Đừng Bị Ù Tai Vì Nhiễu Âm - Nên Nhìn Vào Thực Tế Kinh Tế Quốc Tế.... 

* Hoa Kỳ vẫn phục hồi trước các nước * 


Từ vài tháng qua, người ta bắt được nhiều tín hiệu trái ngược về tình hình kinh tế toàn cầu sau năm năm chấn động. 

Trong các nền kinh tế công nghiệp hoá, Hoa Kỳ đã phục hồi nhanh nhất. Âu Châu chưa ra khỏi cơn khủng hoảng và Nhật Bản mới bắt đầu áp dụng những giải pháp cải tổ táo bạo để đẩy lui làn sóng suy trầm. Ngoài thế giới công nghiệp hóa, nền kinh tế có sản lượng thứ nhì của thế giới là Trung Quốc cũng khởi sự cải cách và có đà tăng trưởng thấp hơn. Rốt cuộc, kịch bản "Tầu vượt Mỹ" chỉ là ảo vọng....

Giữa khung cảnh đó, vụ thành phố Detroit bị vỡ nợ vì thu vào không đủ cho gánh nợ hơn 18 tỷ, trong đó phân nửa là nghĩa vụ về hưu bổng và y tế phải chi ra mà chẳng có nguồn thu. Đã vậy, hôm 24, Tổng thống Barack Obama lại mở chiến dịch vận động dư luận cấp cứu kinh tế với lối giải thích kỳ lạ về nguyên do của Tổng suy trầm và hậu quả cho giới trung lưu.

Tức là kinh tế Hoa Kỳ chưa phục hồi?

Hôm Thứ Hai 29, đến lượt một chuyên gia cao cấp của Bắc Kinh đả kích lập luận bi quan về triển vọng kinh tế của Trung Quốc. Justin Lin (Lâm Nghị Phu) là người có thẩm quyền: từ Đài Loan đào thoát qua Hoa lục năm 1929, ông tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại Chicago để là viên chức ngân hàng Trung Quốc, rồi qua làm Phó Chủ tịch và Kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới từ 2008 đến năm ngoái, trước khi về làm cố vấn kinh tế cho lãnh đạo Bắc Kinh.

Nghĩa là kinh tế Trung Quốc chưa đến nỗi nào?

Bài viết này không đề cập đến chuyện "kinh tế cũng là chính trị" – xin để tuần sau! – mà cố trình bày những nguyên nhân sâu xa hơn, khiến Hoa Kỳ đã phục hồi sớm nhất trong các khối kinh tế lớn của thế giới. May ra, ta khỏi bị hiểu lầm về những lý luận hàm hồ của các chính khách.


***


Trước hết, thế giới trôi vào khủng hoảng tài chánh rồi suy trầm từ năm 2008 vì lý do chính là vay mượn quá nhiều sau khi tiêu thụ quá mức tiết kiệm. Nói đến điều ấy, ai cũng có thể nghĩ Hoa Kỳ là thủ phạm vì tiêu thụ chiếm đến 72% của Tổng sản lượng, trong khi các nước đang phát triển, kể cả Trung Quốc, đã có mức tiết kiệm rất cao và nhờ vậy mà có tiền cho Mỹ vay để duy trì một thất quân bình quá lớn và quá lâu, đến vài chục năm.

Trong hoàn cảnh đó mà bảo Hoa Kỳ hồi phục sớm nhất là một nghịch lý nhuốm mùi "phục Mỹ"....

Thật ra, trong sự vận hành của kinh tế toàn cầu với tác động tương hằng từ xứ này qua xứ khác, lời phê phán đạo đức chỉ là trò chính trị. Thí dụ như dân Đức hy sinh tiết kiệm cho dân Hy Lạp tiêu xài quá mức nên mới gây khủng hoảng trong khối Euro. Hoặc Bắc Kinh thắt lưng buộc bụng người dân để lấy dự trữ ngoại tệ rất cao cho Mỹ vay nhằm gây sức ép với Hoa Kỳ... Truyện ngụ ngôn con ve sầu ca hát và tiêu hoang nên mắc nợ con kiến chắt bóp tiết kiệm chỉ là... truyện. Sự thật lại đơn giản như một bản kế toán. 

Xin lỗi quý độc giả về chuyện khó hiểu này!

Quốc gia nào cũng có hai sinh hoạt là sản xuất và tiêu thụ. Khi sản xuất nhiều hơn tiêu thụ thì được một khoản dư dôi là tiết kiệm. Nếu tiết kiệm nhiều hơn số đầu tư thì được thặng dư trong cán cân chi phó hay trương mục vãng lai. Số thặng dư phải được đầu tư ra ngoài, tức là xuất cảng tiền tiết kiệm, hay xuất cảng tư bản. Ngược lại, nếu tiết kiệm nội địa ít hơn đầu tư thì phải nhập cảng tiết kiệm, hay tiếp nhận đầu tư của nước ngoài. Theo định nghĩa kế toán, trương mục vãng lai và trương mục đầu tư phải cân bằng, với kết số bằng số không. Thâm hụt trương mục vãng lai phải được bù đắp bằng tư bản nhập nội.

Từ khái niệm trừu tượng đó, xin nhớ thêm rằng xuất cảng tư bản có nghĩa là nhập cảng số cầu từ nước khác. Vì vậy, khối tiết kiệm và tiêu thụ mới ảnh hưởng đến ngoại thương, xuất nhập cảng. Chính sách ngoại thương là kết quả của tình trạng chi thu, tiêu thụ và tiết kiệm bên trong. Và các nước muốn can thiệp vào ngoại thương để nâng xuất cảng và giảm nhập cảng thì có thể nghĩ đến giải pháp hối đoái, như phá giá để dễ hàng bán ra với giá rẻ hơn và giảm số nhập cảng vì giá đắt hơn. Những biện pháp can thiệp này tác động ngược vào số tiêu thụ và tiết kiệm nội địa....

Sau mấy trăm chữ về một chuyện khó hiểu, xin trở lại vấn đề chính là sức tiết kiệm của từng nước. Dĩ nhiên là nó tùy vào nếp văn hóa, tâm lý bi quan hay lạc quan về tương lai, mà cũng lệ thuộc vào chánh sách kinh tế hay những ràng buộc về tổ chức, với chỉ dấu tổng hợp là mức tiêu thụ so với Tổng sản lượng.

Mức trung bình của nhiều nền kinh tế lớn trên toàn cầu là ở trên 50% Tổng sản lượng GDP. Hoa Kỳ có số tiêu thụ quá cao (tiết kiệm quá thấp), bằng 70-72%. Trung Quốc thì ngược lại, với số tiêu thụ chỉ bằng 35-37% Tổng sản lượng.

Yếu tố quan trọng nhất là các khối kinh tế này không biệt lập mà tác động vào nhau. Việc Mỹ phải nâng mức tiết kiệm (giảm mức tiêu thụ) lại liên hệ với việc Trung Quốc phải tăng mức tiêu thụ. Sợi dây chuyển lực giữa hai nhu cầu này là ngoại thương, và gián tiếp hơn, là hối suất đồng bạc.

Nhưng việc điều chỉnh còn tùy thuộc vào tình trạng khép mở, tự do nhiều hay ít, của hai nước.

Hoa Kỳ trôi vào khủng hoảng vì nợ cao, tiết kiệm thấp do nhiều yếu tố tâm lý (lạc quan) hay chính trị, thậm chí sự hao tốn cho chiến tranh. Yếu tố quan trọng là vì có nền kinh tế mở nhất, với cơ chế linh động nhất: thế giới càng tiết kiệm nhiều dân Mỹ càng tiêu thụ mạnh và tiết kiệm của thiên hạ tràn vào Mỹ càng tạo ra thịnh vượng và hiệu ứng là tâm lý phồn vinh... giả tạo.

Năm năm qua, Hoa Kỳ đụng đáy sớm nhất, dân chúng bóp bụng trả nợ, doanh nghiệp gia tăng tiết kiệm và đang xây dựng lại một nền móng quân bình hơn. Mức độ tự do của cơ chế khiến nuớc Mỹ ứng phó nhanh nhất. Nhưng trình độ dân chủ của chính trị cũng khiến các chính trị gia phát biểu lung tung để kiếm phiếu và gây ra ấn tượng sa sút của Hoa Kỳ.

Ngược lại, Trung Quốc trì hoãn nhu cầu cải cách mức tiêu thụ quá thấp được thấy từ 10 năm trước, tới khi Tổng suy trầm xuất hiện năm 2008 lại còn thổi lên một núi nợ khổng lồ. Nếu trong 10 năm tới, xứ này cần nâng mức tiêu thụ từ 35% lên 50% để có cơ cấu quân bình hơn thì vừa phải đạt mức tăng trưởng hơn 10% một năm vừa tái phối trí tài nguyên từ khu vực nhà nước qua các hộ gia đình. Là điều bất khả về chính trị vì thế lực của đảng viên và cán bộ nhà nước. Do tình trạng bất khả này, đà tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chỉ còn ở khoảng 3-4% một năm.

Vì vậy 10 năm tới là 10 năm thoái trào của Trung Quốc và sự tái xuất hiện của siêu cường Hoa Kỳ mà nhiều người cứ tiên đoán là đang đi vào tiêu vong!


_____________________

Chỉ có tại Hoa Kỳ

Một học khu tại tiểu bang Indiana cho biết là năm ngoái đã tốn 300 ngàn đô la thực phẩm mà làm học sinh bị đói. Chỉ vì học khu Carmel Clay áp dụng sáng kiến của Đệ nhất Phu nhân Michelle Obama là cung cấp bữa trưa lành mạnh hơn cho học sinh, họ tốn tiền mua rau cỏ trái cây mà chẳng ai muốn ăn nên cuối cùng thì vào thùng rác. Bà Giám đốc chương trình thực phẩm là Linda Wireman còn cho biết học sinh than phiền rằng chúng về nhà với bụng rỗng. Chủ quan duy ý chí của nhà nước để đẹp lòng lãnh đạo?

Thứ Năm, tháng 7 25, 2013

Cải Cách tại Nhật Bản và Trung Quốc

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày130724
"Điễn đàn Kinh tế"

Trung Quốc học theo chiến lược Nhật Bản và nay phải cải cách mà không có dân chủ... 


000_Hkg8372948-305.jpg
* Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (giữa) cùng các nhà lãnh đạo các nước khối ASEAN chụp tại Tokyo vào ngày 12 tháng 3 năm 2013. AFP photo* 


Sau cuộc bầu cử Thượng viện cuối tuần qua, đảng Tự Do Dân Chủ của Thủ tướng Shinzo Abe có đa số đủ mạnh trong cả hai viện của Quốc hội Nhật Bản. Nhờ vậy, từ nay đến kỳ bầu cử tới vào năm 2016, Thủ tướng Abe có thời gian đủ dài để thật sự cải cách cơ chế kinh tế, xã hội và chính trị Nhật Bản sau hai chục năm đình đọng. Nhưng đáng chú ý hơn vậy là khi Nhật có cơ hội chuyển hướng vài chục năm mới thấy một lần thì cũng là lúc Trung Quốc đang nói đến cải tổ để khỏi rơi vào tình trạng sa sút như nước Nhật. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu hai trường hợp cải tổ song hành của hai nền kinh tế dẫn đầu Châu Á.

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, cách đây đúng hai tháng trên diễn đàn này, ông có trình bày về cái trớn cải cách của Nhật nếu đảng cầm quyền thắng cử tại Thượng viện, là điều đã xảy ra tuần qua. Đảng Tự Do Dân Chủ cùng đảng liên minh thuộc xu hướng Phật giáo là Tân Công Minh thắng lớn để liên minh cầm quyền của Thủ tướng Shinzo Abe có thể bước vào một tiến trình cải cách sâu rộng. 

Biến cố trên được các nước đón mừng với nhiều hy vọng vì Nhật có nền kinh tế đứng hạng thứ ba thế giới với ảnh hưởng toàn cầu. Nhưng một nước lại có vẻ ngờ vực sự thể này, là Trung Quốc, khi bộ máy thông tin tuyên truyền của nhà nước Bắc Kinh liên tục đả kích Tokyo về ý đồ đen tối trong việc chuyển hướng để trở lại chính sách phiêu lưu quân sự thời xưa. Trong khi ấy, cả thế giới đều biết Trung Quốc cũng bước vào một tiến trình cải cách sâu rộng hầu có thể tránh được những thập niên u ám như Nhật Bản. Vì vậy, kỳ này chương trình chuyên đề của chúng ta sẽ nói về yêu cầu cải cách của hai nền kinh tế đang dẫn đầu Châu Á mà cũng lại có những mâu thuẫn đáng ngại. Ông nghĩ sao về đề nghị này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ông có cái cách lý thú để nêu ra sự tương đồng và dị biệt giữa hai nền kinh tế lớn nhất Á Châu lại đang cạnh tranh với nhau trong nhiều lĩnh vực. Vì thời lượng có hạn, ta chỉ trình bày những điểm chính của cuộc thi đua cải cách với vài bài học có ích cho Việt Nam.

- Trước hết, về đại thể thì kinh tế Trung Quốc vừa vượt Nhật Bản năm 2010, nay có sản lượng cỡ 8.000 tỷ đô la so với gần 7.000 tỷ của Nhật nhờ dân số hơn gấp 10 dân số Nhật. Về thực tế thì một năm một người dân Nhật sản xuất ra gần 47 nghìn đô la so với 6.000 của một người Tầu, tức là giầu gấp tám. Khác biệt chính là dân Nhật đã giàu và nay đã già, với dân số lao động sụt 1% mỗi năm, trong khi dân Tầu thì chưa giàu đã già như chúng ta đã nói kỳ trước.

- Khác biệt thứ hai là Nhật đã công nghiệp hóa trước Trung Quốc cả trăm năm và theo quy luật thị trường từ bảy chục năm trước để thành mẫu mực cho nhiều xứ khác, kể cả cho Trung Quốc là một nước mới chỉ cải cách từ hơn 30 năm khi học theo chiến lược phát triển của Nhật.


Trung Quốc qua mặt Nhật Bản  

000_Hkg8422163-250.jpg
Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Toshimitsu Motegi (P) và Cao ủy Thương mại châu Âu Karel De Gucht (T) tại Tokyo hôm 25/3/2013. AFP photo 

Vũ Hoàng: Thưa ông, hiểu cách khác trong một viễn cảnh dài thì Trung Quốc là nước đi sau về nhiều mặt nhưng có lợi thế là học được kinh nghiệm của các nước đi trước và vừa qua mặt Nhật Bản nhờ dân số cao gấp mười. Nhưng ông vừa nói rằng chính Trung Quốc đã đi theo chiến lược của Nhật. Xin ông giải thích cho thính giả của chúng ta thấy rõ hơn điều ấy. 

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Như nhiều nước tân hưng Đông Á, Trung Quốc áp dụng chiến lược của Nhật là lấy đầu tư và xuất khẩu làm lực đẩy chính cho bộ máy sản xuất. Bên trong thì tổ chức hệ thống sản xuất chung quanh khu vực chủ đạo của các tập đoàn và ngân hàng, dưới sự điều hợp của nhà nước. Khác biệt ở đây là các tập đoàn và ngân hàng Nhật thuộc về tư nhân, trong khi hệ thống chủ đạo của Tầu là của nhà nước, dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng độc tài.

Như nhiều nước tân hưng Đông Á, Trung Quốc áp dụng chiến lược của Nhật là lấy đầu tư và xuất khẩu làm lực đẩy chính cho bộ máy sản xuất.  Nguyễn-Xuân Nghĩa

- Chiến lược phát triển ấy có nâng sản lượng trong một thời gian nhất định, Nhật Bản rồi Trung Quốc đều đạt thành tích ngoạn mục, với một khác biệt là sức tăng trưởng của Nhật có cân đối và công bằng hơn, với tiêu chuẩn bảo vệ môi sinh cao hơn Trung Quốc rất xa.

- Nhược điểm của chiến lược này là thứ nhất quá lệ thuộc vào xuất khẩu và hy sinh khả năng tiêu thụ của người dân, và thứ hai là đầu tư quá nhiều nên mất hiệu suất, gây lãng phí và thổi lên bong bóng. Nhật bị bể bóng đầu tư về địa ốc và cổ phiếu từ năm 1990 rồi khủng hoảng trong nhiều năm liền. Trung Quốc đang bước vào giai đoạn nguy ngập này.

Vũ Hoàng: Nếu nhớ lại thì sau cơn khủng hoảng, cổ phiếu Nhật sụt giá 50%, nay mới lấy lại có 25% và kinh tế qua bảy đợt suy trầm khiến sản lượng không tăng suốt 20 năm rồi bị Trung Quốc vượt mặt. Thưa ông, vì sao lãnh đạo Nhật Bản lại không giải quyết nổi bài toán này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Câu hỏi này rất hay vì cũng là nỗi ám ảnh của Trung Quốc ngày nay. Nhật Bản bị ách tắc chính trị, không dám lấy loại quyết định quá mạnh với cái giá quá đắt để vượt cơn nguy khốn nên mới kéo dài tình trạng đình trệ cho đến ngày nay.

- Một cách cụ thể, đáng lẽ Nhật phải có can đảm xoá nợ, tức là chịu tổn thất vì sai lầm trong đầu tư, và chuyển tài sản từ doanh nghiệp và nhà nước qua cho các hộ gia đình nhờ tiến trình cổ phần hóa hay tư nhân hóa. Nếu như vậy thì họ đã có nền móng lành mạnh hơn để phục hồi, sau vài năm suy thoái. Nhưng vì không muốn uống liều thuốc đắng của vài năm suy thoái, họ tránh suy thoái mà bị suy trầm liên miên. Suy trầm là có đà tăng trưởng thấp hơn, suy thoái là không tăng trưởng mà còn sụt. Hậu quả của sự trì hoãn là nhà nước che giấu phần lỗ lã vì mất nợ, hạ lãi suất đến số không để giảm phí tổn đầu tư hầu các doanh nghiệp khỏi phá sản và vay tiền của dân để trang trải những chi phí này khiến nhà nước mắc nợ đến mức kỷ lục là 240% Sản lượng. Chìm sâu bên dưới là điều nguy ngập mà người ta cứ tưởng rằng hay: Nhật có tỷ lệ tiết kiệm quá lớn, tức là sức tiêu thụ quá ít.

- Chính quyền Shinzo Abe liều lĩnh phá vỡ vòng luẩn quẩn đó khi đòi đánh thuế trên tiết kiệm và khuyến khích tiêu thụ qua lời hăm dọa là sẽ gây lạm phát 2% khi ồ ạt bơm tiền vào kinh tế. Một cách kích thích tiêu thụ khác là đẩy lui phản ứng bảo hộ mậu dịch và đánh bung thế lực của hệ thống phân phối hầu dân chúng có thể mua hàng nhập khẩu từ bên ngoài. Đấy cũng là yếu tố giải thích vì sao, chỉ một ngày sau bầu cử Thượng viện, Nhật chính thức tham dự vòng đàm phán Hiệp định Đối tác Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương TPP, dù rằng việc này sẽ đụng vào quyền lợi của nhiều nhóm lợi ích đã từng cản trở việc cải cách. Nôm na là Chính quyền đang bắt doanh nghiệp phải cạnh tranh với thiên hạ ngay trên thị trường Nhật và tìm cách khác nâng cao lợi tức của người dân. Nếu họ thành công thì đây là một cuộc cách mạng.

Vũ Hoàng: Ông vừa nhắc đến Hiệp định TPP và thị trường nội địa của Nhật khiến ta nghĩ đến bài toán của Trung Quốc. Có phải là hai xứ này đang có những vấn đề tương tự hay chăng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng như vậy, dù là kích thước thì có khác.

Trung Quốc cũng gặp tình trạng bất thường là tiết kiệm quá cao, tiêu thụ quá thấp, do chính sách chủ động của nhà nước là thắt lưng buộc bụng người dân để dồn phương tiện vào đầu tư rồi cũng chất lên một núi nợ là 220% Sản lượng tức là gần bằng Nhật Bản. Một điểm tương đồng khác là cả hai đều trì hoãn cải tổ, dung dưỡng sự mất cân đối quá lâu để duy trì đà tăng trưởng.

- Vì sợ suy trầm mà Trung Quốc sẽ hạ cánh nặng nề, với đà tăng trưởng chỉ bằng phân nửa hiện nay, tức là 3-4% một năm mà thôi. Họ có thể thành công và không gây động loạn nếu nội dung cải cách nhắm vào việc tái phân phối tài sản và phương tiện sản xuất từ khu vực nhà nước về các hộ gia đình và tạo điều kiện cho tư doanh làm ăn dễ dàng. Nhưng, cái khó ở đây là phải phá vỡ lực cản của các thế lực kinh tế và chính trị bên trong và chung quanh hệ thống kinh tế nhà nước. Thế hệ lãnh đạo mới là Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường thì nói đến ý chí cải cách theo quy luật thị trường và chấp nhận một đà tăng trưởng thấp hơn, nhưng người ta thật chưa rõ là quyết tâm này có thể trở thành hiện thực hay không.


Sự khác biệt giữa Trung Quốc  và Nhật Bản   

000_Hkg8516578-250.jpg
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (trái) thảo luận với Bộ trưởng Tài chính Nhật Bản Taro Aso trong phiên họp về ngân sách quốc gia tại Tokyo vào ngày 25 Tháng 4 năm 2013. AFP photo   



Vũ Hoàng: Thưa ông, phải chăng người ta chưa rõ là vì tiến trình quyết định thiếu minh bạch của hệ thống chính trị Trung Quốc? Thí dụ như lãnh đạo các tập đoàn kinh tế nhà nước cũng là Trung ương Ủy viên và họ tác động trong đảng để bảo vệ quyền lợi riêng mà quần chúng bên ngoài không thể biết được. Xét như vậy thì khác biệt chính của chuyện cải cách tại Nhật Bản và Trung Quốc có lẽ nằm trong thể chế chính trị dân chủ và độc tài, có phải vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Quả thật rằng đấy là yếu tố quan trọng nhất.

- Khi tranh cử, các đảng phái chính trị Nhật đều đưa ra chủ trương hành động và vào thực tế của chính trường thì phải mặc cả và tương nhượng đối phương trước sự tường thuật của truyền thông báo chí tự do để cử tri phán xét trên quan điểm quyền lợi của họ. Tiến trình thỏa hiệp ấy khá nhiêu khê rắc rối và dễ thay đổi nhưng quần chúng mới đích thực là người quyết định sau cùng.

- Trung Quốc không gặp loại khó khăn này vì tưởng là một đảng độc quyền dễ lấy quyết định hợp lý mà khỏi qua thủ tục đổi chác như trong một chế độ dân chủ. Sự thật lại khác hẳn. Quyết định thiếu tính hợp lý và sự đổi chác lại mờ ám nên dễ đưa tới những liều thuốc đổ bệnh.

Trong giai đoạn chuyển hướng, đà tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc sẽ giảm mạnh và Nhật Bản thì mở rộng đầu tư ra ngoài và vì những mâu thuẫn gay gắt với Trung Quốc nên sẽ tìm vào các thị trường khác. Nguyễn-Xuân Nghĩa

Vũ Hoàng: Nếu có thể tạm tổng kết, ông nghĩ sao về việc hai nền kinh tế dẫn đầu Châu Á của một nước dân chủ và một nước độc tài đang cùng bước vào giai đoạn cải cách?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thuần về kinh tế thì đây là một điều may mắn cho người dân của hai quốc gia này vì việc cải cách chỉ có thể thành công nếu tái phân lại lợi tức cho dân chúng và các tiểu doanh nghiệp tư nhân. Đấy mới là lực đẩy đích thực của nền kinh tế.

- Trong giai đoạn chuyển hướng, đà tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc sẽ giảm mạnh và Nhật Bản thì mở rộng đầu tư ra ngoài và vì những mâu thuẫn gay gắt với Trung Quốc nên sẽ tìm vào các thị trường khác. Đấy là cơ hội thuận lợi cho Việt Nam để vừa ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc vừa tiếp nhận công nghệ cao cấp hơn của Nhật.

- Nhưng vì kinh tế cũng là chính trị, nếu Trung Quốc gặp khó khăn nội bộ thì sẽ hướng dư luận ra ngoài và đào sâu mâu thuẫn với Nhật Bản. Điều ấy càng giúp Chính quyền Nhật cải cách thành công nhờ hậu thuẫn của người dân đang bừng tỉnh với tinh thần ái quốc, nhưng lại gây ra nhiều rủi ro xung đột trong khu vực.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về cuộc trao đổi này.

_______________

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này

Thứ Tư, tháng 7 24, 2013

Trung Quốc Ngàn Năm


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 130724 

Những nhập nhằng của Bắc Kinh và hiểu lầm của thế giới về Trung Quốc

 * Lãnh thổ "Trung Quốc" thời Nguyên Mông... Hốt Tất Liệt, Khang Hy, v.v... là người Hán ư?


Với dư luận thế giới, Trung Quốc là cường quốc đã có ảnh hưởng quốc tế trong cả ngàn năm, sau thế kỷ lụn bại chỉ bằng chớp mắt, nay đang chiếm lại ngôi vị truyền thống. Cho nên các chiến lược gia đều thấy sự thật này trong cách xử trí với một quốc gia từng là trung tâm thế giới hay thiên hạ, như tên gọi của Trung Quốc. Khốn nỗi, sự thật này chỉ là một huyền thoại.

Sự thật là Trung Quốc chưa từng là trung tâm của thế giới, dù chỉ là thế giới của đại lục Âu-Á. Và ngàn năm qua, Hán tộc đã từng bị các sắc tộc khác thống trị trong nhiều thế kỷ. Bài này sẽ nói về giai đoạn đầu của "ngàn năm Trung Quốc", từ năm 960 với Đế chế của nhà Đại Tống cho đến năm 1911 khi Đế chế nhà Đại Thanh sụp đổ, chấm dứt luôn sự cai trị của các Hoàng đế Trung Hoa, khởi đầu từ Tần Thủy Hoàng Đế vào năm 221 trước Công nguyên.

Sau ngàn năm đó là "trăm năm huy hoàng" của Hán tộc, từ 1912 đến 2013 - một chuỗi huyền thoại cận đại mình sẽ xét sau....

***


Thế giới ngoài Châu Á, là Âu Châu hay "Tây phương", có thể đã lần đầu tiên biết về Trung Quốc dưới cái tên là CATHAY, hình như là do lầm lẫn của Marco Polo khi kể lại chuyện Trung Quốc thời nhà Nguyên với cái tên phổ biến KHITAN tại Tây Á và Trung Á của Đế quốc Khất Đan hay Khiết Đan.

Khác với nhiều quốc gia mà tên nước phản ảnh chủ quyền của một sắc tộc chính (Đại Việt là một thí dụ, Afghanistan là một thí dụ khác, đất của người Afghan), Trung Quốc có tên nước khá trung hoà, chung chung, là "quốc gia trung tâm". Bên trong có nhiều sắc tộc khác nhau, nhưng Hán tộc giữ vai trò chính - hoặc làm như là đã từng giữ vai trò chính. Đấy là huyền thoại đầu tiên, một sai lầm cứ lưu truyền như chân lý. Ngày nay, khi tiếp tục dùng chữ "Trung" như Bắc Kinh hay con vẹt Hà Nội, chúng ta lưu truyền sự sai lầm đó. Vô tình hay cố ý thì xin cứ chọn!

Trong ngàn năm Trung Quốc, từ 960 đến 1911, Hán tộc đã nằm dưới, hoặc bị các dị tộc bợp tai đá đít trong nhiều thế kỷ, khoảng hai phần ba thời gian đằng đẵng này.

Trước hết, sử sách lười biếng - và kẻ đọc sử theo tinh thần bị Hán hoá, là không dùng óc phê phán - thường ghi rằng nhà Đại Tống khởi nghiệp nhờ Triệu Khuông Dận vào năm 960 sau 70 năm loạn lạc của thời "ngũ đại thập quốc" ("năm đời 10 nước"), và kết thúc vào năm 1279. Ngàn năm qua, đấy là triều đại của Hán tộc có thiên mệnh lâu nhất, dài hơn ba thế kỷ (319 năm).

Sự thật lại không hẳn như vậy. Trước hết là về nhà Đại Tống.


ĐẠI TỐNG 960-1279


Nhà "Đại" Tống quãng 1114, dưới chân Tây Hạ và nhà Kim, bên cạnh Tây Tạng và Đại Lý (Nam Chiếu)


Sự thật là nhà Tống có nhiều thành tựu chói lọi về văn chương hay kỹ thuật, nhưng là thời "đa nguyên" khi chính quyền trung ương suy yếu nhất trong các triều đại của Hán tộc. Lý do là một sự thật khác: lãnh thổ Trung Quốc tuột khỏi tầm kiểm soát của Hán tộc vì bị các triều Khất Đan, Tây Hạ và nhà Kim cai trị trong cả thế kỷ. Xin hãy đọc lại:

Từ năm 960 đến 1279, nhà Đại Tống bị mất đất 1) cho Khất Đan từ năm 916 (Triệu Khuông Dận chưa thống nhất tất cả như thiên hạ thường nghĩ) đến năm 1125; 2) cho Tây Hạ (thuộc tộc Tangut, Thông Cổ Tư, có họ với dân Tây Tạng) từ 982 đến 1227; 3) cho nhà Kim, thuộc sắc tộc Nữ Chân, có họ với dân Khất Đan và Mãn tộc sau này, từ năm 1115 đến 1234.

Không chỉ mất đất, nhà Tống còn bị chia hai. Sau trăm năm đầu thì Bắc Tống bị tộc Liêu uy hiếp và bị nhà Kim tiêu diệt năm 1127. Còn Nam Tống thoi thóp đến năm 1279 là tiêu vong.

Trong 319 năm đó, sự thật ai oán là nhà Đại Tống của Hán tộc chịu phận chư hầu, phải triều cống cho Khất Đan từ năm 1004 và cho Tây Hạ từ năm 1044. Năm 1207, Hoàng đế Nam Tống là Ninh Tông Triệu Khoách còn tăng mức triều cống và tự xưng cháu, "Hoàng điệt", với "Hoàng thúc" nhà Kim. Chúng ta kính trọng các anh hùng của họ, như Nhạc Phi hay Văn Thiên Tường, nhưng, khi thấy Hán tộc coi thường các sắc tộc họ gọi là tứ di thì đừng quên sự thật: trong hơn ba thế kỷ của nhà Tống, có hai thế kỷ là bị "man di" khuất phục. Ta nhớ lại các anh hùng dân tộc của ta đã đánh bại quân Tống, như Lê Đại Hành năm 981 hay Lý Thường Kiệt năm 1075....

Nam Tống trước khi tiêu vong



NGUYÊN MÔNG 1279-1368

Sau đó là thời của cháu nội Thành Cát Tư Hãn, là Hốt Tất Liệt, người lập ra nhà Nguyên của sắc tộc Mông Cổ trên một lãnh thổ bát ngát.

Sau khi Thành Cát Tư Hản lấn đất cắm dùi từ năm 1207 thì Mông Cổ hoàn toàn làm chủ Trung Quốc từ năm 1279 đến 1368. Hán tộc là dân thứ cấp, hạng dưới, của người Mông Cổ. Dù có thi đỗ để ra làm quan từ năm 1315 trở về sau cho triều Nguyên Mông thì sĩ phu Hán tộc chỉ được nhậm chức ở địa phương. Triều đình trung ương thuộc các Đại Hãn. Họ kết nạp trí thức Tây Á, Trung Á, Á Rập, thậm chí Âu Châu (Marco Polo là thí dụ).

Đây là một thời "đa nguyên" khác vì tầng lớp ưu tú xuất phát từ nhiều sắc tộc, thuộc các tôn giáo hay văn hóa như Phật giáo Tây Tạng, Hồi giáo, Cảnh giáo hay Mani giáo ("Minh giáo" theo cái hiểu thông tục nhờ truyện võ hiệp Kim Dung).... Tư tưởng Khổng Nho và cả chữ Hán có được sử dụng, nhưng chỉ là phương tiện cai trị thực tiễn ở dưới. Và trí thức Hán tộc có hai ngả giải thoát là văn chương, và.... lại luyện thuốc trường sinh theo Đạo giáo.


ĐẠI MINH 1368-1644


Vạn lý Trường thành vào đời Minh - Tân Cương, Mông Cổ và Mãn Châu ở đâu? \


Sau trăm năm dưới ách Nguyên Mông (1279-1368) Hán tộc có cơ hội quật khởi khi Chu Nguyên Chương sáng lập ra một triều đại kéo dài từ 1368 đến 1644.

Trải ngàn năm của Trung Quốc nếu có một thời kỳ mà Hán tộc thật sự thi thố tài năng hoặc nguyện ước "bình thiên hạ" thì đấy là vào nhà Minh, ít ra trong nửa đầu của 276 năm cai trị, là hơn một thế kỷ. Kết luận là không có gì sáng láng!

Tính trung bình thì trong 276 năm, mỗi năm lại có một cuộc chiến (con số chính xác của Alastair Johnson, một học giả Harvard, là 1,12!) Ngoài chuyện loạn lạc triền miên với hơn 300 vụ xung đột giải quyết bằng quân sự, những điểm nổi bật nhất của nhà Minh của tộc Hán là:

Thứ nhất, mở rộng và củng cố Vạn lý Trường thành, một kỳ tích của sự sợ hãi có thể thấy được từ mặt trăng. Thứ hai và đấy là lý do, vì khu vực Trung Nguyên của Hán tộc thường bị các dị tộc Mông, Mãn tấn công. Thứ ba, nhà Minh quay đầu vào núi, giữ thể thủ để tồn tại: sau bảy chuyến hải hành từ 1405 đến 1433 của Tam bảo Thái giám Trịnh Hoà, một Đô đốc Hồi giáo, thì Hán tộc ra lệnh "hải cấm". Nhường đại dương cho thế giới. Thứ tư, nhà Minh trở lại lý luận tinh thuần của Khổng Nho, không tranh đua buôn bán với thiên hạ.

Một lý do quan trọng không kém của kỳ tích tự cô lập này là kinh tế: công khố bị kiệt quệ.

Mười năm chiếm đóng (1407-1418) và thu vét tài nguyên của Đại Việt lại ộc ra hết và lỗ vốn vì 10 năm kháng chiến của Lê Lợi từ 1418 đến 1427! Xin đặt lại "Bình Ngô Đại Cáo" của Nguyễn Trãi vào bối cảnh "geopolitics"....

Và dù đã nâng cao mở rộng Vạn lý Trường thành, Hán tộc dưới đời Minh vẫn không ngăn nổi thác lũ từ Đông Bắc, họ lại bị dị tộc khuất phục sau khi gặp cảnh tham ô và động loạn liên miên từ trước đời Sùng Trinh 1611-1644.

Kết luận thì lãnh thổ Trung Quốc thời Nguyên Mông rộng lớn chừng nào thì co cụm dúm dó chừng đó vào thời nhà Minh của Hán tộc. Rồi chỉ mở rộng là nhờ dị tộc Mãn Thanh.


ĐẠI THANH 1644-1911

Bản đồ Đại Thanh - và nghệ thuật nhận vơ của Hán tộc



Mối duyên, hay cái nợ, của Hán tộc với các sắc tộc Nữ Chân, Khất Đan hay Liêu Kim không kết thúc với nhà Nguyên hoặc được Trường thành Liêu Đông của nhà Minh ngăn trở. Các sắc tộc thiểu số trên vùng Đông Bắc đã tranh đua với nhau, thoát khỏi ách Nguyên Mông và quật khởi. Đó là Mãn Tộc, tự xưng nhà Hậu Kim rồi đổi thành nhà Thanh. Họ vượt trường thành vào làm chủ Trung Quốc từ năm 1644.

Ngẫm lại thì thế giới bên ngoài biết quá ít về các sắc tộc hay bộ lạc như Mông Cổ, Tây Hạ hay Thông Cổ Tư, hoặc Mạt Hạt, Nữ Chân, Khất Đan, Cao Ly hay Mãn Châu, v.v.... Có lẽ Hán tộc cũng tránh nói đến cái phần kém vinh quang của họ trên những khu vực hoang vu cằn cỗi nơi "quan ngoại", ngoài Vạn lý Trường thành. Cho đến khi bàng hoàng vì bị một sắc dân thiểu số từ đó bước vào cai trị trong 267 năm.

Các sắc dân này cũng có đại anh hùng, như Đại Hãn Nỗ Nhĩ Cáp Xích và con trai là Hoàng Thái Cực, hai người sáng lập nhà Đại Thanh. Họ là tổ phụ của những Khang Hy và Càn Long nổi tiếng trên thế giới và góp phần nhân đôi diện tích của Trung Quốc vào đời Minh!

Quả thật là nhà Đại Thanh đã là đại cường Đông Á trong thời kỳ đầu, với các cuộc viễn chinh mở rộng bờ cõi nhờ các chiến công quân sự tại Tân Cương, Tây Tạng, Nepal và Miến Điện. (Trường hợp nước ta với Quang Trung Nguyễn Huệ là ngoại lệ tê tái, y như các chiến công đời Trần).

Thế giới khi ấy chỉ có ba Đế quốc xứng tài là Đế quốc Ottoman theo Hồi giáo, Đế quốc Moghul của văn hóa Ba Tư và Đế quốc Đại Thanh của Mãn tộc.

Dưới triều Mãn Thanh, Hán tộc lại là loại công dân hạng nhì, thắt bím nằm im dưới các sắc tộc thiểu số. Trong tổ chức quân sự và dân sự, là "bát kỳ", dưới tám lá cờ, các tộc Mãn và Mông vẫn lãnh đạo ở trên, Hán tộc là nô bộc chỉ được tham dự về sau, và ở cấp thấp. Trong sinh hoạt trị quốc, chữ Hán có được dùng, nhưng chỉ là phương tiện điều hành cho cấp dưới, chứ các văn từ quan trọng nhất đều viết bằng tiếng Mãn. Việc Hán tộc đã "Hán hóa" của dị tộc cũng là một huyền thoại khác. Nhà Thanh áp dụng tư tưởng Khổng Nho vì có lợi cho bộ máy thống trị - và cũng khiến xứ sở lụn bại dần - chứ vẫn khinh thường người Hán. Chỉ những ai đã nhiều đời phục vụ các tộc Nữ Chân, Kim Liêu về trước hay Mông Mãn về sau mới được trọng dụng. Họ là thành phần bị gọi là "Hán gian"....

Chính là sự miệt thị này mới giải thích phản ứng dội ngược của Hán tộc trong cuộc cách mạng gọi là "Dân Quốc" vào năm 1911 - và những thảm kịch về sau. Chuyện về sau, khi sẽ nói sau....


***


Khi điểm lại "ngàn năm Trung Quốc", từ 960 đến 1911, ta thấy ra quy luật của sự nhập nhằng, lồng trong mặc cảm tự ti được che giấu bằng tinh thần tự tôn nhờ chiến công của người khác.

Trong 319 của nhà Tống, có hơn 200 năm bị ngoại thuộc từng phần rồi toàn phần. Cộng với gần trăm năm thống trị của Mông Cổ và 267 năm của Mãn Thanh, Trung Quốc thực tế bị ngoại tộc khuất phục trong khoảng 600 năm. Xin viết lại cho dễ nhớ: 600 năm cúi đầu trong 950 của Đế chế Trung Quốc.

Nói cách khác, đa số các Hoàng đế Trung Quốc không phải là người Hán. Hai phần ba thời gian vinh quang của Trung Quốc ngàn năm là một chuỗi dài nhục nhã cho Hán tộc.

Khi các dị tộc man rợ này cai trị thiên triều thì họ mở cơ hội cho nhiều sắc tộc khác tham gia. Khi Hán tộc có thể một mình một chợ thi thố tài năng thì chủ nghĩa duy chủng thắng thế, Hán tộc là nhất. Trung Quốc có sự "ổn định" huy hoàng - trăm năm đầu của nhà Tống và nhà Minh. Sau đó là nội loạn, ngoại xâm và lụn bại.

Ngày nay, khi lãnh đạo Trung Quốc lấy chiến công chinh phục của dị tộc để nói về chủ quyền của họ, từ vùng Mãn Châu qua Nội Mông, Tân Cương hay Tây Tạng, họ nhập nhằng với lịch sử. Và với địa dư. Những vùng đất nằm ngoài Vạn lý Trường thành, dù là xây vào đời Chiến Quốc, hay Tần, hay mở rộng vào đời Minh, không thể là lãnh thổ của Trung Quốc.

Lãnh đạo Bắc Kinh còn nhập nhằng với các sắc tộc khác khi lại đề cao Hán tộc và coi thường những sắc tộc đã bị đồng hóa lần mòn, mà vẫn chưa thấy yên tâm trong bụng.... Nếu hiểu ra tâm lý đó, ta có thể hiểu được những động thái ngày nay của Bắc Kinh, rất hung hăng với bên ngoài, để che giấu mối lo ở bên trong.

Đặt vào bối cảnh địa dư chiến lược của trường kỳ, ta mới thấy sự kiêu hùng của Đại Việt từ các chiến công lẫy lừng vào đời Tống, đời Nguyên, đời Minh đến thời Thanh làm Càn Long phải tâm phục.... Còn đâu cái nét kiêu hùng?