Thứ Ba, tháng 4 29, 2014

Hiệu Ứng Phồn Vinh... Giả Tạo



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt Ngày 140428
"Kinh Tế Cũng Là Chính Trị"

Tại sao biện pháp kích thích kinh tế lại thiếu công hiệu?

* Cửa nào của em cũng sáng! * 



Sau khi vụ khủng hoảng tài chánh bùng nổ vào Tháng Chín năm 2008 giữa một chu kỳ suy trầm (từ Tháng 12 năm 2007 tới Tháng Bảy 2009), Chính quyền Hoa Kỳ ban hành Đạo luật ARRA, Phục hoạt và Đầu tư (American Recovery and Reinvestment Act) trị giá 787 tỷ Mỹ kim nhằm kích thích kinh tế.

Khi đó, Tháng Năm năm 2009, Hội đồng Cố vấn Kinh tế bên Phủ Tổng thống công bố một dự báo về triển vọng nhân dụng nhằm giảm thiểu mức thất nghiệp. Đúng năm năm sau, tham khảo lại văn kiện này ta thấy dự báo ấy là quá lạc quan. Nhưng chưa thấm gì nếu so với phúc trình do Hội đồng Cố vấn này soạn thảo cho Tổng thống công bố vào Tháng Ba vừa qua. Một tác phẩm tuyệt vời về thành tích không có của biện pháp kích cầu.

Không tin vào giới chính trị trong một năm có bầu cử, ta nên chú ý đến kế hoạch kích thích của một định chế độc lập là Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ (Federal Reserve Board – FRB hay Fed) với biện pháp hạ lãi suất và bơm tiền tới mấy ngàn tỷ (gọi tắt là QE). Được áp dụng liên tục từ năm năm nay, kế hoạch gây tranh cãi còn gay gắt hơn đạo luật ARRA dù Ngân hàng Trung ương Mỹ là định chế ít bị chính trị hóa nhất nhờ tư thế độc lập của mình.

Đầu Tháng Tư vừa qua, lần đầu tiên Fed công bố mô thức được áp dụng từ 1996 để thẩm định thị trường làm cơ sở cho các quyết định về tiền tệ và tín dụng. Ta có thể coi "Mô thức FRB/US" là tấm hải đồ mà các thuyền trưởng đã tham khảo và áp dụng để đưa kinh tế ra khỏi sóng gió. May ra thì mình hiểu tính chất hợp lý của các quyết định có ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế của Hoa Kỳ, và cả thế giới, vì sức nặng của nền kinh tế này.

Người viết đã tự hành hạ (hí hí) khi đọc các tài liệu nhức đầu ấy, và sẽ hành hạ độc giả (hí hí bis) để nói dài hơn mọi khi về một sự hợp lý quái đản - một nghịch lý. Vì sao kinh tế chưa hồi phục, thất nghiệp còn cao mà người giàu lại còn giàu hơn trong khi giới trung lưu vẫn chật vật, và dân nghèo thì ngóng đợi nguồn trợ cấp của nhà nước, của các chính khách trong hệ thống chính trị?

Lòng vòng rồi vẫn về chuyện cũ: "kinh tế cũng là chính trị!" - với một chấm than....


***

Kinh tế chỉ phát triển khi tài hóa lưu thông. Tài hóa chỉ lưu thông khi người có tài sản chịu chi ra. Họ có mua sắm thì hàng bán mới chạy, hãng xưởng mới tuyển người rồi ai cũng thấy mình giàu hơn nên tiêu xài rộng rãi hơn trong sự hồ hởi chung. Giới kinh tế gọi đó là "hiệu ứng thịnh vượng" – wealth effect.

Từ năm 1987 đến nay, hệ thống Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ đã có ba vị thuyền thưởng là các Thống đốc Alan Greenspan, Ben Bernanke và Janet Yellen. Họ chỉ đạo nhóm "tài công" trong một ủy ban hữu trách về chính sách tín dụng và tiền tệ có tên là FOMC (Federal Open Market Committee) cứ sáu tuần lại họp một lần để quyết định về các biện pháp tài chánh trên thị trường nhằm điều tiết khối tiền tệ theo hai mục tiêu là ổn định vật giá và tạo ra việc làm.

Ủy ban FOMC dùng Mô thức FRB/US để chẩn đoán tình hình và định hướng chính sách theo lý luận là người có tài sản mà đem ra tiêu thụ thì sẽ kích thích kinh tế - làm tài hóa lưu thông.

Người thịnh vượng chủ yếu là có tiền đầu tư vào thị trường chứng phiếu và có nhà cửa được giá. Đầu năm nay, tân Thống đốc Yellen phát biểu không khác gì hai vị tiền nhiệm: "Một phần của việc kích thích kinh tế đến từ giá nhà và giá cổ phiếu cao hơn khiến những ai có hai loại tài sản đó tiêu xài nhiều hơn, họ tạo thêm việc làm và lợi tức cho cả nền kinh tế".

Nôm na thì kinh tế tăng trưởng nhờ ấn tượng về thịnh vượng, có thể gọi đó là hiệu ứng "phồn vinh", một từ quen thuộc sau năm 1975.... Cũng xin nói ngay rằng không phải là mọi người trong số 12 ủy viên của FOMC đều đồng ý với lý luận "kích cầu" đó trong thời gian vừa qua.

Từ lập luận có vẻ hợp lý này, mình nên suy ngẫm thêm một bước. Nếu biện pháp kích thích có thể gia tăng sự thịnh vượng cho người có tài sản thì sức tiêu thụ sau đó sẽ tăng, và thất nghiệp dần dần sẽ giảm. Tìm ra mối liên hệ khoa học giữa đà gia tăng của tài sản và tiêu thụ thì ta có thể quyết định về biện pháp nâng đỡ những người có tài sản để nhờ đó tính ra mức độ nâng đỡ: thêm một đồng – thì thêm được mấy xu tiêu thụ?

Mô thức FRB/US của Ủy ban FOMC có tham vọng tính ra mức liên hệ đó làm căn bản của chính sách bơm tiền. Thí dụ như nếu tài sản tăng giá được trăm đồng thì tiêu thụ sẽ tăng từ năm đến 10 đồng. Dựa trên quy luật đầy vẻ khoa học ấy, Ngân hàng Trung ương Mỹ dự báo là kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng được 6% trong bốn năm qua, năm nay sẽ tăng thêm 2,9%, qua năm tới thì tăng được 3,5%.

Đấy là nguyên ủy của kế hoạch hạ lãi suất và ào ạt bơm ra hơn ba ngàn tỷ Mỹ kim, với kỳ vọng tạo ra số tăng trưởng là một ngàn tỷ Mỹ kim tính đến cuối năm ngoái.

Vậy mà con số ngàn tỷ đó vẫn chưa có.

Hình như các thuyền trưởng đã lạc quan tếu!

Từ nhiều năm nay, một số trung tâm nghiên cứu ảnh hưởng của sự thịnh vượng tới sức tiêu thụ từ năm 1930 tới 2013 đã phủ nhận mối quan hệ lạc quan giữa tài sản và tiêu thụ. Không nhiều đến mức là cứ giàu thêm một đồng là xài năm/mười xu, có khi chỉ ở khoảng 0,04 đến 0,06 thôi. Điều ấy phần nào giải thích vì sao năm qua giá cổ phiếu và địa ốc đã tăng mạnh (chỉ số tiêu biểu là S&P 500 tăng gần 18% và Chỉ số Giá nhà tăng hơn 9%, tổng cộng là tăng gần 27%) mà số tiêu thị chỉ tăng có 1,2%.

Nói theo người Hà Nội năm xưa thì đấy chỉ là sự phồn vinh giả tạo. Mà sai!

Vì Hoa Kỳ có sự phồn vinh thật, nhưng tập trung vào một thiểu số có tài sản đầu tư trong thị trường địa ốc và chứng khoán. Khổ nỗi cái ơn mưa móc ở trên lại không rỏ xuống dưới, nên người ta mới rên về sự bất công trong xã hội. Nguy hơn vậy, sự giàu có tích lũy ở trên lại đang thổi lên bong bóng, y như mà còn lớn hơn những gì đã thấy năm 2007-2008, khi bóng bể....

Tuy nhiên, sự thể vẫn không đơn giản là chính sách kinh tế Mỹ chỉ phục vụ nhà giàu như nhiều người có thể nghĩ. Ta nên nhìn xa hơn Mô thức FRB/US hay sự tính toán của Ngân hàng Trung ương Mỹ về khả năng kích cầu.

Nhìn vào sự thay đổi trong xã hội Mỹ từ năm năm qua.


***

Ngoài số tiền kỷ lục được bơm vào kinh tế, nước Mỹ còn có nhiều kỷ lục khác.

Thí dụ một, Đạo luật Cải tổ Y tế (Obama Care) dày tới 2.400 trang khiến nhiều người đọc không hết mà vẫn biểu quyết theo lời khuyên của Chủ tịch Hạ viện thời đó là Nancy Pelosi: cứ bỏ phiếu đi, rồi sẽ biết! Khi áp dụng thì các điều lệ lên tới hai vạn trang, và còn nhiêu khê hơn bộ luật thuế vụ. Trong doanh trường, chi tiết cần biết cho việc chấp hành có thể là năm vạn trang chưa nói tới giấy mực đổ ra cho cuộc tranh luận.

Gặp hoản cảnh đó, nếu chẳng không đủ giàu để kiếm bạc triệu trên thị trường cổ phiếu, các doanh nghiệp loại nhỏ và vừa, thành phần tạo ra nhiều việc làm nhất, đều ngần ngại bỏ tiền ra mở mang cơ sở và tuyển thêm người.

Cũng trong cái trớn cải tạo sau vụ khủng hoảng tài chánh năm 2008, đạo luật Dodd-Frank cho lãnh vực ngân hàng là mấy ngàn trang điều lệ làm các ngân hàng ở địa phương chỉ có nước đóng cửa và nhường chỗ cho các đại gia "quá lớn nên không thể để sụp". Hệ thống kiểm soát là mạng lưới rất khít cho bầy cá nhỏ và xua các phiêu sinh vật, trương chủ cò con, vào các ngân hàng lớn.

Ngoài ra, còn biết bao luật lệ rắc rối nữa về môi sinh, năng lượng, thuế vụ giáo dục khiến nền kinh tế phải chịu nhiều ẩn phí và thành phần lưng chừng ở giữa bị chết ngộp.

Với lãi suất nằm quá lâu ở số không, giới trung lưu có tiền tiết kiệm đang là phiêu sinh vật. Họ phải trả thuế nhiều hơn để giúp những người còn nghèo hơn mình ở dưới bậc thang xã hội, mà rất ít hy vọng khởi sắc để nâng cao khả năng cung ứng.

Nạn suy trầm kinh tế đã chính thức kết thúc từ Tháng Bảy năm 2009, nhưng tình hình chưa khả quan mà còn đáng lo trong mấy năm tới chính là vì chánh sách kích cầu và chặn cung vừa qua.

Kinh tế học gọi đó là "liều thuốc đổ bệnh"....

Thứ Bảy, tháng 4 26, 2014

Putler và Điếu Xì Gà của Hillary


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 140426

Putin có thể là Hitler, nhưng ai sẽ là Churchill?  

Dân Ukraine biểu tình chống "Putler"
















Đúng năm năm sau, Hillary Clinton có dịp bật lại cái nút của mình với Vladimir Putin và nhắc nhở thiên hạ về lịch sử.

Hãy nói về cái nút đã!

Vừa lên nhậm chức vào đầu năm 2009, Tổng thống Barack Obama đã muốn cải thiện quan hệ với Liên bang Nga, khi ấy vẫn do Putin lãnh đạo trong vai trò Thủ tướng, ở đằng sau mà thật ra là trên đầu Tổng thống Dmitry Medvedev, một thuộc hạ thân tín của ông trong hai nhiệm kỳ làm Tổng thống. 

Qua lời phát biểu của Phó Tổng thống Joe Biden, nước Mỹ muốn "bật lại cái nút", mà, như thông lệ, Biden lại nói sai - là "reset".

Số là máy móc điện cơ hay điện tử vẫn có cái nút gọi là "reset" để tắt máy và bật lại một chu trình mới. Việc bật lại thường được nói cho rõ là "reset the button". Quý bà nội trợ có thể mò dưới đáy cái máy xay rác trong bếp thì sẽ thấy một cái nút đỏ như vậy để bấm khi máy bị kẹt. Miễn là nhắc ông chồng rút tay ra khỏi ống thoát rác!

Chuyện quốc gia quốc tế thì trọng đại hơn việc tề gia hoặc xay rác. Chính quyền Obama nghĩ đến việc "bật lại" hay đưa quan hệ Mỹ-Nga qua một chu trình mới.

Nếu muốn tìm hiểu cho kỹ thì có lẽ khái niệm "reset" xuất phát từ sáng kiến của một lò trí tuệ thiên tả năm 2007. Đó là khi trung tâm Center for American Progress gồm toàn nhân vật tham mưu của Bill Clinton rồi Barack Obama đề nghị một đối sách khác của Hoa Kỳ với quốc tế. Họ gọi đó là "strategic reset", để ra khỏi những sai lầm của Chính quyền George W. Bush.

Hoa Kỳ triệt để hòa giải để hòa hợp với thiên hạ và quay về cải tạo xã hội của mình. Sau Obama và Biden, Ngoại trưởng Hillary Clinton mới đưa đối sách vào áp dụng.

Nôm na là bật nút!

Ngày 26 Tháng Hai năm 2009, bà tặng vị tương nhiệm trong Chính quyền Nga là Ngoại trưởng Sergei Lavrov cái hộp có nút đỏ ghi chữ "Reset" bằng Anh ngữ. Bộ Ngoại giao Mỹ vốn thông thái mà có khi thiếu kẻ thông dịch, nên dịch sai chữ "Reset" qua tiếng Nga là "Peregruzka" làm Lavrov cười ngất. Sai vì không có nghĩa là "reset", mà còn lạc vì hàm ý "nóng máy" hay "quá tải". 

Em lộn nút rồi - Đồng chí vứt mẫu thân nó đi!


Một sự sai lạc mang ý nghĩa tiên tri - hay tiền định! Vụ khủng hoảng Ukraine là một chứng nghiệm....

Năm năm sau, đầu Tháng Ba vừa rồi, Hillary có dịp sửa lại cái sai năm xưa về đối sách với Nga khi phát biểu tại California rằng hành động của Putin tại Crimea gợi nhớ tới Hitler. Là người thông minh, và sắc xảo, Hillary đã nghĩ tới tấm lịch bầu cử năm 2016, khi mình có thể ra tranh cử Tổng thống. Và bị vặn nút.

Nhờ vậy, ta hãy tìm lại Hitler, và thấy ra Putin – cùng nhiều bóng ma khác.


***


Hitler là người yêu nước Đức chẳng kém gì Putin yêu nước Nga. Trong cuốn "Mein Kampf", ông viết ra điều ấy, rất mạch lạc dù chưa thi vị bằng Obama trong cuốn "Dreams from My Father". "From" chứ không phải là of My Father, xin bà con để ý cho.... Muốn hiểu vì sao, xin đọc lại bài của người viết trên cột báo này từ tháng Chín năm 2010 với lời giải thích vì sao đấy là một Tổng thống... chống Mỹ.

Trong cuốn Mein Kampf, Hitler viết về cuộc đấu tranh, chứ không phải những giấc mộng của mình, để thống nhất những ai cùng chia sẻ văn hoá và ngôn ngữ Đức trong một đế quốc, một Reich. Việc thống nhất đó nên tiến hành trong hòa bình và qua thương thảo, nhưng nếu cần thì bằng võ lực, chiến tranh và chinh phục.

Trên nước Đức bị tàn phá sau Thế chiến I, Hitler bước lên vị trí lãnh đạo qua bầu cử và tìm cách hủy bỏ những áp đặt bất lợi của phe Đồng minh trong Hoà ước Versailles khi Đức bị khuất phục vào năm 1918. Bước đầu tiên là đưa quân vào vùng phi quân sự Rhineland. Và để lại đó khi các nước Anh Pháp trong phe Đồng minh vẫn nín thinh. Quân sự hóa một vùng phi quân sự là hành động đáng ngại, mà chưa ai thấy là đáng lo.

Bước kế tiếp là Hitler cho quân tiến vào vùng Anschluss của một nước nói tiếng Đức, là nước Áo. Từng là thần dân của một Đế quốc bị gẫy càng, dân Áo hoan hỉ làm công dân của Đế quốc Đức trong khi phe Đồng minh vẫn nín lặng. Trưởc vẻ nhu mềm đó, Hitler bèn tiến tới.

Lãnh thổ Tiệp Khắc Czechoslovakia có deo đất Sudetenland là nơi ngụ cư bất đắc dĩ của dân nói tiếng Đức. Hitler đưa quân vào "bênh vực" những người yếu thế này, và đạt thỏa thuận với phe Đồng Minh tại Thượng đỉnh Muchen năm 1938. Đại diện cho phe Đồng Minh trong việc thương thuyết là Thủ tướng Neville Chamberlain của Anh. Ông ta biện bạch rằng Hitler chỉ muốn bảo vệ người Đức trên đất Sudenten mà thôi.

Huề cả làng. Được vài tháng.

Đầu năm 1939, xứ Tiệp Khắc mất đất Sudentenland thì hết đường chống cự trước sức ép của Hitler. Không mất một viên đạn, Hitler đã mở rộng lãnh thổ để cứu dân Đức. Lúc ấy phe Đồng minh mới tá hoả và Ba Lan tuyệt vọng. Các nước lật đật ký kết một hiệp ước phòng thủ với Ba Lan. Nhưng Putin, à quên Hitler, vẫn có lý do rất chính đáng.

Đó là nhu cầu bảo vệ dân Đức tại Ba Lan, trước tiên là trong hải cảng Danzig sau này nổi danh với nhân vật Lech Walesa. Tháng Chín năm 1939, Hitler đưa quân vào Ba Lan, phe Đồng minh hết đất lùi và đành nổ súng.
Thế chiến II bắt đầu, và máu đổ thịt rơi tới mức kỷ lục, nếu ta bỏ qua những kỷ lục tự biên tự diễn của Stalin và Mao Trạch Đông....

Khi nhớ lại, nếu các nước sớm có phản ứng từ đầu, từ việc quân sự hóa vùng Rhineland, có lẽ Hitler chưa hít đã lật. Và thế giới có thể tránh được Thế chiến II. Nhưng khi đó, lý luận dũng cảm như vậy vẫn là thiểu số. Winston Churchill cô đơn, mang tiếng chủ chiến. Còn lại là một bầy cừu....

Bây giờ đến chuyện tái sinh.


***


Là một sĩ quan mật vụ Liên Xô, Vladimir Putin chứng kiến sự tan rã rồi sụp đổ của Liên bang Xô viết trong quãng thời gian từ 1989 đến 1991. Với ông thì đấy là tai họa có tầm quan trọng nhất của Thế kỷ 20, như ông đã phát biểu năm 2005. Lên lãnh đạo Liên bang Nga từ năm 2000, ông tiếp nhận di sản Xô viết là 1) bộ máy chiến tranh với kho võ khí hạch tâm rất lớn và 2) hệ thống năng lượng dầu khí của một lãnh thổ bát ngát.

Ông sử dụng hai di sản này để thu hồi lại ảnh hưởng đã mất của Đế quốc Xô viết, trước hết là tại vùng biên vực mà thiên hạ gọi là Đông Âu. Tiện thay, các quốc gia nhỏ yếu hơn trong vùng biên vực đều không có võ khí hạch tâm.

Riêng Ukraine thì đã trả lại võ khí chiến lược ấy để đổi lấy lời cam kết là Nga tôn trọng quyền độc lập của mình. Qua Hiệp ước Budapest năm 1994, lời cam kết của Nga được sự ủng hộ và bảo trợ của các nước Tây phương, hậu thân của "phe Đồng minh" ngày xưa. Đứng đầu vẫn là Anh, Pháp.

Chuyện thứ hai, tại vùng biên vực này và còn xa hơn về hướng Tây, các nước đều cần tới năng lượng của Nga. Putin lại khéo mời chào với giá tương đối rẻ, tội gì mà sản xuất lấy hoặc mua ở nơi khác? Liên bang Nga trở thành nhà cung cấp số một, với những đề nghị sặc mùi Bố Già Vito Corleone - "khó từ chối được".

Nhưng, vì quên bẵng Hitler và lý luận Mein Kampf, các nước Tây phương không mấy chú ý đến một di sản thứ ba của Liên Xô thời xưa. Đó là sự hiện diện của kiều dân Nga, hay nhiều cộng đồng "Nga thoại", nói tiếng Nga hoặc thấm nhuần văn hóa Nga. Sau khi các nước Đông Âu được "giải phóng" và đi theo chế độ dân chủ, thành phần dân số Nga thoại xưa kia tự coi là siêu hạng trong hệ thống Nga Xô lại thấy tụt dốc thành công dân hạng hai, là dân thiểu số có màu sắc Nga la tư.

Là người yêu nước Nga, Putin khai thác tâm lý đó trong cộng đồng Nga, trước tiên là tại các nước tiếp cận với lãnh thổ Nga. Đó là ba nước Cộng hoà Baltic (Estonia, Latvia và Lithuania), rồi Georgia, Ukraine và Moldovia. Sau đấy sẽ là Ba Lan và các quốc gia còn lại.

Tại Đông Âu, dân thiểu số gốc Nga không bị bạc đãi, nhưng nhiều người luyến tiếc cái thời vàng son mà họ có thể hét ra lửa dưới lá cờ Xô viết. Họ coi Putin là cứu tinh. Ngôi sao vàng rực rỡ....

Vì vậy, việc Putin thôn tính Crimea bằng ba lợi thế là sức mạnh quân sự, võ khí năng lượng và thiểu số Nga thoại, chỉ là bước nối tiếp những gì đã làm vào năm 2008 tại hai khu vực tự trị của Georgia là Abkhazia và Nam Ossetia. Để sẽ tiếp tục ở nơi khác.

Khi cơ sự bùng nổ tại Ukraine và bóng dáng Hitler xuất hiện đằng sau Putin, dân Ukraine đã tặng hỗn danh "Putler" và bộ ria rất hài cho tân Đại đế.

Nhưng các nước Tây phương lại gặp toàn những Neville Chamberlain tái sinh. Ban tam ca Pháp Anh Đức đồng ca bản "hiếu hòa". Từ Tổng thống Pháp François Hollande tới Thủ tướng Anh David Cameron và Thủ tướng Đức Angela Merkel đều tuyên bố ngay từ đầu là sẽ không dùng võ lực để bảo vệ Ukraine. Và nếu có phải trừng phạt Putin về kinh tế thì cũng đừng nên gây thiệt hại cho mình! Làm sao dung hòa hai nhu cầu trái ngược đó?

Vì vậy, với Putler, lời hăm của Âu Châu không đáng sợ.

Khốn thay, đằng sau ba nước đồng minh, Hoa Kỳ là thế lực duy nhất khả dĩ ngăn được Putin lại do Obama lãnh đạo. Ngoài thuật hùng biện có thể "đẩy sóng ra khơi, nối chân trời gần lại", Obama còn có cái tài là biến những người như Jimmy Carter hay Neville Chamberlain thành... diều hâu!

Không nói chuyện võ mà chỉ dùng văn, Obama vẫn chưa vận động được võ khí năng lượng để hóa giải sức ép của Putin. Dầu khí của Mỹ chưa thể cấp cứu Ukraine hay Âu Châu ra khỏi vòng phong tỏa của Putler. Hay là phải quan niệm lại cái lẽ chiến hòa và mở ra cuộc thi đua võ trang như bọn diều hâu Cộng Hoà?

Đấy là lúc Hillary nghĩ đến cái nút sẽ bật lại khi nhắc mọi người về thành tích của Hitler và nghĩ đến chân trời 2016.

Hãy tưởng tượng đến một Hillary Clinton lẫm liệt trong ngày tranh cử với trang phục của một người hùng Winston Churchill! Nếu có thiếu cái điếu xì gà thì đã có ông nhà cho mượn....

Hài!

Thứ Năm, tháng 4 24, 2014

Duy Ngô Nhĩ và An Ninh Đông Nam Á



Hùng Tâm - Hồ Sơ Người-Việt 140422

Dân Thiểu Số Đông Thổ Và Bài Toán Quốc Tế Của Bắc Kinh

 * Dân Duy Ngô Nhĩ trong một trại tạm cư Thái Lan, ngày 14 Tháng Ba 2014 *


Vụ xung đột hôm 18 tại cửa Bắc Phong Sinh của tỉnh Quảng Ninh tiếp giáp với Trung Quốc đã khiến bảy người thiệt mạng, kể cả hai sĩ quan biên phòng của Việt Nam. Biến cố ấy khiến ta nên chú ý tới những vấn đề sâu xa hơn của Bắc Kinh trong cách giải quyết bài toán Duy Ngô Nhĩ, với hậu quả lan rộng vào cả khu vực Đông Nam Á. "Hồ Sơ Người-Việt" sẽ tìm hiểu chuyện này.


Từ Đông Thổ tới Duy Ngô Nhĩ


Trong các sắc dân tại Trung Á, người Hồi Hột hay Đột Quyết đã từng có nền văn hóa và lịch sử lâu dài trước khi bị Hán tộc xâm chiếm và dần dần đồng hóa từ đời Mãn Thanh cho đến thời nay.

Tên gọi là Uighurs hiện nay là do dân Nga đặt ra dưới thời Xô viết, được người Trung Hoa dùng lại và phiên dịch thành Duy Ngô Nhĩ. Sắc dân này thuộc gốc Thổ (Turkic) tương tự như người dân tại các nước Kazakhstan, Kyrgyzstan, Azerbaijan, Turkmenistan hay Turkey, v.v... Đa số của họ theo đạo Hồi. Nhưng nếu người dân của các nước trên đều có một quốc gia riêng thì dân Uighurs lại không có lãnh thổ vì xứ sở bị Bắc Kinh thôn tính và sát nhập vào đất Trung Quốc từ năm 1949, với tên gọi là "Khu Tự trị Dân tộc Duy Ngô Nhĩ" ở Tân Cương.

Chính cái tên Tân Cương, biên cương mới, là do nhà Thanh đặt ra năm 1884 sau khi chinh phục vùng đất mà người Đột Quyết gọi là Đông Thổ (đất của dân Thổ miền Đông). Quốc tế gọi đó là East Turkestan, với chữ "stan" có nghĩa là "đất của". Nói đến Đông Thổ là hàm ý nhắc lại gốc tích khác biệt, độc lập, hay "không phải là Trung Quốc" của dân địa phương. Sau thời Nội chiến, năm 1949, Mao Trạch Đông hoàn tất việc thôn tính với chánh sách biến đất Tân Cương thành vùng trái độn quân sự được Hán hóa, và dân Duy Ngô Nhĩ bị đồng hóa, thành sắc dân thiểu số.

Chủ trương này cũng được áp dụng tại Tây Tạng.

Ngày nay, lãnh thổ Tây Tạng cùng Đông Thổ hay Tân Cương, được lãnh đạo Bắc Kinh gọi là "quyền lợi cốt lỗi", hay "hạch tâm nghĩa lợi". Dĩ nhiên là dân Tây Tạng và Đột Quyết không muốn vậy. Nhưng nếu dân Tây Tạng đấu tranh tương đối ôn hòa theo chủ trương của đức Đạt Lai Lạt Ma - họ chỉ xin được quyền tự trị chứ không đòi độc lập - thì dân Đột Quyết hay Hồi Hột lại có đường lối cực đoan hơn.

Họ không từ chối giải pháp bạo động để giành lại độc lập, có tổ chức chính trị như Đảng Hồi giáo Turkestan thì cũng có lực lượng bán quân sự như ETIM, Phong trào Hồi giáo Đông Thổ (East Turkestan Islamic Movement), một tổ chức bị Bắc Kinh kết án là khủng bố.

Nhìn lại lịch sử và tấm bản đồ Trung Quốc thì Hán tộc tập trung tại khu vực Trung Nguyên ở miền Đông đã từng bị các dị tộc tấn công và làm chủ hơn 60% của khoảng thời gian trên ngàn năm vửa qua. Vì vậy, lãnh đạo Trung Quốc qua các thời kỳ đều muốn khống chế biên vực và lập ra vùng trái độn quân sự để bảo vệ Trung Nguyên. Ngược chiều kim đồng hồ từ vùng Đông Bắc trở xuống thì đấy là đất Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương và Tây Tạng.

Nơi có vấn đề nặng nhất chính là đất Tân Cương.

Do hai khía cạnh sắc tộc là gốc Thổ và tôn giáo là theo đạo Hồi, nỗ lực đấu tranh của dân Đột Quyết hay Hồi Hột, Duy Ngô Nhĩ, tại Tân Cương có mối quan hệ đến nhiều xứ Hồi giáo khác, kể cả nước Turkey (hay Thổ Nhĩ Kỳ) ở rất xa. Bên trong lãnh thổ Trung Quốc, do chính sách dời dân để dễ đồng hóa của Bắc Kinh, dân Hồi Hột hiện sống tản mác ở nhiều nơi ngoài đất Tân Cương, kể cả Hồ Nam hay Vân Nam.

Việc đấu tranh của họ gây ra nhiều biến động liên tục và kết thúc với nhiều vụ thảm sát mà thế giới bên ngoài không chú ý. Sau vụ khủng bố 9-11 năm 2001 tại Hoa Kỳ, Bắc Kinh còn khéo lợi dụng tâm lý của quốc tế và nước Mỹ, để đưa các tổ chức đấu tranh của dân Hồi Hột vào danh mục khủng bố.

Một bước ngoặt của việc đấu tranh này là vụ thảm sát tại Côn Minh, thủ phủ của Vân Nam, vào đầu Tháng Ba vừa qua.


Vụ Thảm Sát Côn Minh


Xưa nay, dân Hồi Hột có áp dụng phương pháp bạo động khi tấn công đồn bót hay trụ sở công an, chủ yếu là trong khu vực Tân Cương, và nhắm vào cán bộ hay cảnh sát của Trung Quốc. Hôm mùng một Tháng Ba vừa qua, các nhóm dân quân của họ lại ra tay theo đường lối khác hẳn.

Họ tấn công thường dân, và tại nhà ga hỏa xa của Côn Minh. Khoảng một chục người rút dao chém bừa trong nhà ga khiến 29 người thiệt mạng và 130 người bị thương. Cảnh sát bắn chết bốn hung thủ ở tại chỗ, bắt được một nghi can là phụ nữ và truy lùng những người còn lại mà chưa ra tông tích.

Biến cố xảy ra khi lãnh đạo Trung Quốc đang chuẩn bị "lưỡng hội" là hai hội nghị của Quốc hội và Hiệp chính (Hội nghị Hiệp thương Chính trị, một cơ chế tư vấn của đảng) nhưng đáng chú ý vì nhắm vào thường dân vô tội và ở ngoài khu vực Tân Cương.

Đáng chú ý hơn cả chính là địa điểm Côn Minh thuộc tỉnh Vân Nam.

Vân Nam là một tỉnh bị khóa trong lục địa (land-locked province), tiếp giáp với Tây Tạng, tỉnh Quảng Tây, Miến Điện, Lào và Việt Nam. Đây là một tỉnh nghèo, có mức thất nghiệp cao, thường xuyên bị động vì sự bất mãn của người dân chống chính quyền tham ô và bọn cường hào ác bá có liên hệ đến đảng viên cán bộ. Vân Nam còn nổi tiếng vì ba đặc sản là 1) các tổ chức ma túy, 2) các nhóm buôn lậu qua biên giới và 3) mâu thuẫn giữa các sắc tộc thiểu số với nhau.

Ờ một cấp độ cao hơn, về an ninh và kinh tế, Vân Nam còn là bàn đạp cho Bắc Kinh mở đường giao thương với Lào, Miến, Thái Lan và tiến xuống vùng Đông Nam Á. Tiến tới Đông Nam Á ở hướng Tây Nam, thay vì hướng Đông Nam như qua vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa và eo biển Malacca.

Ngay sau vụ thảm sát tại Côn Minh, một lãnh tụ của đảng Turkestan Islamic Party và có liên hệ với tổ chức võ trang ETIM là Abdullah Mansour đã ra thông cáo ngợi ca hành động này. Ông ta hiện lẩn trống trong khu vực biên giới giữa Afghanistan và Pakistan.

Dù sao trong vụ Côn Minh, có thể là các nhóm võ trang ô hợp và rời rạc của dân Duy Ngô Nhĩ đã "tiện đâu đánh đấy" chứ cũng chẳng có một chủ trương hay lãnh đạo thống nhất. Nhưng mà nhìn từ Bắc Kinh thì mối liên hệ giữa dân Duy Ngô Nhĩ với các nhóm khủng bố Hồi giáo hoạt động rải rác từ Trung Á đến Nam Á và Đông Nam Á mới là chuyện đáng lo.

Còn người Việt chúng ta nên tự hỏi là vụ Côn Minh và Bắc Phong Sinh có liên hệ gì với nhau? "Hồ Sơ Người-Việt" tìm câu trả lời... tại Thái Lan.



Thái Lan và Hồi Dân Nhập Lậu


Mươi ngày sau khi xảy ra vụ thảm sát thường dân tại Côn Minh, thời sự quốc tế loan một cái tin quá nhỏ.

Hôm 13 Tháng Ba, Chính quyền Thái Lan tại quận Sadao trong tỉnh Songkla bắt hai nhóm Hồi giáo nhập lậu vào Thái, một nhóm 218 người, một nhóm 78 người. Họ theo đạo Hồi, tự xưng là người Thổ (Turkish) nhưng nếu tinh ý thì ai cũng biết là Đông Thổ, hay Uighurs. Giới chức Thái tinh ý biết ngay vì năm ngoái họ đã bắt giử 112 người tỵ nạn Hồi giáo, và sau vụ Songkla mươi ngày thì chặn thêm 15 người Hồi giáo tỵ nạn xâm nhập từ Cam Bốt vào tỉnh Sa Kaeo. Ngần ấy người tỵ nạn đều có chung đạo Hồi, xuất xứ Uighurs và... có tiền.

Họ không là khủng bố mà là nạn dân đã trả tiền, có khi tới gần hai chục ngàn đô la, để ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc. Tức là Thái Lan vừa bắt thêm một mẻ lưới trong mạng lưới di dân Hồi Hột. Có kinh nghiệm về nạn dân - chuyện thuyền nhân của chúng ta là một – và có vấn đề về Hồi giáo tại các tỉnh miền Nam, Chính quyền Thái bèn mở cuộc điều tra và tìm cách đối phó.

Họ thấy người Duy Ngô Nhĩ có mạng lưới nhiều ngả để ra khỏi Trung Quốc, đi qua bốn nước hạ vực Mekong là Miến, Lào, Miên, Việt để tới miền Nam Thái Lan rồi Mã Lai Á. Từ Malaysia, di dân Hồi giáo hy vọng được giấy thông hành để tới xứ Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc một xứ văn minh dân chủ là Úc.

Thái Lan tìm ra điều mà Bắc Kinh đã biết từ lâu.

Lãnh đạo Trung Quốc tất nhiên là biết rằng dân Duy Ngô Nhĩ của họ đã tìm cách liên lạc với thế giới bên ngoài để qua ngả Tây Nam của lãnh thổ mà tìm đất sống ở nơi khác qua sự can thiệp hay trợ giúp của quốc tế, kể cả Cao ủy Tỵ nạn Liên hiệp quốc. Trên đường đào thoát qua ngả Tây Nam, Côn Minh của tỉnh Vân Nam là một trạm quan trọng vì 1) được Bắc Kinh dùng làm bàn đạp kinh tế xuống Đông Nam Á; 2) dân Hồi giáo đã bị đẩy khá đông về đây sau vụ nổi dậy đẫm máu năm 2009 tại Ô Lỗ Mộc Tề (Urumqi) của Tân Cương; và 3) trong các mặt hàng buôn lậu sở trường của tỉnh Vân Nam, nhiều người Hoa đã khai thác thêm món nạn dân Hồi giáo.

Với Bắc Kinh thì đây là vấn đề chính trị vì phơi bày thực trạng Hồi giáo tại Tân Cương, nhưng biến thành an ninh sau vụ thảm sát tại Côn Minh, và trở thành tiêu chuẩn về ngoại giao. Bắc Kinh yêu cầu các nước Đông Nam Á phải giải giao người Hồi giáo nhập lậu về cho họ vì đấy là những kẻ liên hệ đến khủng bố.

Ngẫu nhiên sao – hoặc tiện lợi chừng nào - vụ thảm sát tại Côn Minh hôm mùng một Tháng Ba, rồi vụ xung đột tại Bắc Phong Sinh của Việt Nam hôm 18 vừa qua, lại chứng minh là Bắc Kinh có lý! Trả dân khủng bố Duy Ngô Nhĩ về cho Trung Quốc là điều hợp lý.

Khi theo dõi kỹ chuyện này, người ta có thể thấy ra một quy tắc chung. Vì biết trước số phận đen tối của nạn dân, các quốc gia tương đối có tư thế mạnh đều đắn đo ngần ngại trước lời đòi hỏi của Bắc Kinh, như trường hợp của Mã Lai và Thái Lan. Chính quyền Thái còn tìm cách liên lạc với quốc tế hay một quốc gia đệ tam như Turkey để xin họ đón nhận nạn dân Duy Ngô Nhĩ.

Các nước bị sức ép quá nặng của Bắc Kinh thì mau mắn chấp hành và cũng chấp nhận luôn lý luận của Trung Quốc: người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ là khủng bố. Vụ Bắc Phong Sinh nên được nhìn lại theo ý nghĩa đó.

Cụ thể là trên đường vượt tuyến có cả đàn bà con trẻ thì có mấy ai đi tỵ nạn mà nổ súng? Biết đâu chừng, kẻ nổ súng chính là người dẫn đường?

______________________


Kết luận ở đây là gì?

Bắc Kinh có thể uy hiếp an ninh của các lân bang Đông Á, mà lại gặp vấn đề an ninh bên trong. 

Một trong các vấn đề ấy là dân Duy Ngô Nhĩ, khiến Trung Quốc lại xuất cảng nạn dân. Dù dán nhãn khủng bố lên món hàng này, Bắc Kinh cũng khó che giấu nổi cái tội đàn áp nhân quyền.

Các quốc gia bị Trung Quốc uy hiếp về an ninh có nên giúp Bắc Kinh bảo vệ an ninh và dẫn độ người Hồi cho họ hay chăng? Nếu không muốn tiếp tay với Trung Quốc thì họ có thể làm gì?

Tại sao không quốc tế hóa hồ sơ này và yêu cầu các nước cùng tham gia giải quyết? Quốc tế hóa chuyện nạn dân Duy Ngô Nhĩ có khi dễ hơn chuyện lưỡi bò chín khúc ngoài Đông hải, mà còn được tiếng là bảo vệ nhân quyền.