Thứ Hai, tháng 7 28, 2014

Quỳnh Giao – Lòng Ta Ở Với Người

Quỳnh Giao (1946 - 2014)



Quỳnh Giao sinh tại Vỹ Dạ của cố đô Huế vào ngày tám Tháng 11 năm 1946 với khuê danh là Nguyễn Phước Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang.

Nói theo lối cổ điển về thân thế, Quỳnh Giao thuộc "Hoàng phái" từ song thân là cụ Ưng Quả và danh ca Minh Trang.

Thân phụ là Nguyễn Phước Ưng Quả, hiệu Vân Hán (1905-1951), cháu nội Tuy Lý Vương Miên Trinh - tự Khôn Chương, hiệu Tĩnh Phố, người con thứ 11 của vua Minh Mạng và em vua Thiệu Trị. Nhà giáo Ưng Quả là học giả uyên bác được giới khảo cứu Việt học của Pháp kính trọng và là bậc thầy của một thế hệ giáo sư, sau này có nhiều khoa trưởng của các Đại học thời độc lập. Học giả Ưng Quả từng là Thái tử Thiếu bảo khi dạy học Thái tử Bảo Long, Hiệu trưởng trường Quốc học tại Huế, Giám đốc Nha học chánh Trung Phần thuộc Bộ Học của nước Việt Nam thời Pháp và tác giả của nhiều công trình biên khảo về văn hóa và mỹ thuật Việt Nam, từng phiên dịch văn chương Pháp qua Việt ngữ và văn học Việt qua Pháp ngữ... Ngoài ra, cụ còn là người thẩm âm sành nhạc và gẩy đàn nguyệt khi tiêu khiển. Cũng trong dòng họ, có Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi cụ Ưng Quả là cậu, em ruột của mẹ.

Cụ Ưng Quả mất năm 1951 tại Bộ Học sau một cơn trụy tim, thọ 46 tuổi, khi Quỳnh Giao mới lên năm.

Thân mẫu Quỳnh Giao, nghệ sĩ Minh Trang, có khuê danh là Nguyễn Thị Ngọc Trâm, là con gái của Thượng thư Nguyễn Hy. Bà là cháu ngoại của Công chúa Công Tằng Tôn Nữ Tốn Tùy, tức Mỹ Lương Công chúa. Công chúa Mỹ Lương được người đương thời tôn xưng là "Ngài Chúa Nhất" vì là chị cả của vua Thành Thái.

Bà Ngọc Trâm sinh năm 1921, tốt nghiệp Tú tài Pháp, làm biên tập viên và xướng ngôn viên song ngữ Pháp-Việt trong lãnh vực phát thanh từ thời Pháp. Bà lấy nghệ danh Minh Trang từ khi hát cho đài Pháp Á vào buổi bình minh của nền tân nhạc Việt Nam. Nghệ danh ấy là sự kết hợp tên của con trai và con gái của bà là hai nghệ sĩ Bửu Minh và Đoan Trang. Bửu Minh là danh thủ violon, ngồi ghế concert master của dàn nhạc hòa tấu Stuttgard Symphony ở Đức. Danh ca Minh Trang đã tạ thế vào Tháng Tám năm 2010 tại California Hoa Kỳ.

Ở tại Huế đến khi lên bảy Quỳnh Giao mới vào Sàigon sống với thân mẫu và kế phụ là Dương Thiệu Tước, một nghệ sĩ đã góp phần khai phá nền tân nhạc cải cách, nhạc sư đàn Tây Ban Cầm và là cháu nội của một danh sĩ Bắc Hà, Thượng thư Dương Khuê.

Do huyết thống và lại sống trong môi trường âm nhạc, Quỳnh Giao có năng khiếu về nhạc từ bé.

Khi danh ca Minh Trang lập ban hát thiếu nhi đầu tiên là Thiếu Sinh Nhi Đồng thì Đoan Trang đã cùng anh trai tham dự, với tiếng hát thiếu nhi của Mai Hương, Bích Chiêu, Bạch Tuyết, Kim Chi, Quốc Thắng và Tuấn Ngọc.... Sau năm 1953, khi hai kịch sĩ Kiều Hạnh và Phạm Đình Sĩ (song thân của Mai Hương) vào Nam thì Minh Trang nhường cặp nghệ sĩ này điều hành ban hát Nhi Đồng và đổi tên ra Ban Tuổi Xanh cho thích hợp với lứa tuổỉ của ca sĩ thiếu nhi. Đấy là lúc xuất hiện những tiếng hát như Hoàng Oanh, Mai Hân, Phương Hoài Tâm, Xuân Thu....

Vừa cắp sách vào lớp trung tiểu học, Quỳnh Giao vừa học nhạc tại trường Quốc gia Âm nhạc (trường có thêm ban Kịch nghệ sau này) và được sự dìu dắt về dương cầm của danh sư Đỗ Thế Phiệt (dì Ngọc Thuyền trong gia đình) và về nhạc lý từ nhạc sĩ Hùng Lân. Với Hùng Lân, Quỳnh Giao là một trong những học trò giỏi nhất của ông. Sau bảy năm học nhạc, năm 1963, Quỳnh Giao tốt nghiệp thủ khoa về dương cầm lẫn nhạc pháp, và sau này còn được sự dìu dắt về thanh nhạc của một giáo sư Pháp, cứ được gọi là Madame Robin.

Là dương cầm thủ xuất sắc, Quỳnh Giao đã trình tấu cùng nhiều danh cầm Việt Nam và ngoại quốc trong Dàn Nhạc Giao Hưởng của trường Quốc gia Âm nhạc dưới sự điều khiển của Nhạc trưởng Đỗ Thế Phiệt và nhiều lần xuất hiện trong các chương trình hòa nhạc tại Đông Nam Á.

Do Minh Trang bị hen suyễn phải giải nghệ, ở tuổi 15, Quỳnh Giao chính thức hát thay mẹ và một cách thường xuyên trong nhiều ban nhạc lớn tại các đài phát thanh. Từ đó, với nghệ danh do nhạc sĩ Hoàng Trọng đặt cho, Quỳnh Giao vừa đi học vừa đi hát tại các đài phát thanh Sài Gòn, Quân Đội, Tiếng Nói Tự Do và đài Vô Tuyến Truyền Hình Việt Nam sau này, trong các ban nhạc của Vũ Thành, Hoàng Trọng, Hoàng Lang, Phạm Duy, Anh Ngọc, v.v....

Trong hoàn cảnh thân mẫu về hưu, kế phụ làm công chức, là một nhạc sĩ tài hoa có nhiều đam mê, Quỳnh Giao thực tế hỗ trợ gia đình và được năm em bên dòng họ Dương vô cùng yêu quý. Từ năm 1968, Quỳnh Giao còn dạy dương cầm tại gia về nhạc cổ điển Tây phương và lập gia đình, được một con gái là Dzương Ngọc Bảo Cơ sau này tốt nghiệp Cử nhân về Giáo dục tại Hoa Kỳ.

Trong lãnh vực phát thanh có đào tạo chuyên nghiệp thời trước, các ca sĩ không được chọn ca khúc mà phải trình bày những bản nhạc có hòa âm sẵn theo yêu cầu tại chỗ của nhạc trưởng. Ngoài giọng ca, họ phải biết ký âm pháp, giỏi nhạc, một ngày ứng khẩu hát nhiều bài khác nhau trước máy vi âm được phát thanh trực tiếp. Quỳnh Giao là một trường hợp tiêu biểu cho các ca sĩ đài phát thanh.

Khi biến cố 1975 bùng nổ, Quỳnh Giao cùng gia đình di tản vào Tháng Tư và được anh ruột đón về miền Đông Hoa Kỳ. Bào huynh của Quỳnh Giao là Giáo sư Nguyễn Phước Bửu Dương khi ấy dạy văn chương Pháp và Trung Hoa trong Đại học Hoa Kỳ. Ông là một trong những người Việt đầu tiên tốt nghiệp Tiến sĩ tại Đại học Harvard và nay sống tại miền Nam California với gia đình Quỳnh Giao.

Tại miền Đông, Quỳnh Giao mở lại lớp dương cầm tại gia và yểm trợ rồi đón nhận thân mẫu cũng các em vượt biên qua Mỹ.

Trong thời gian này, Quỳnh Giao thực hiện lấy hai băng cassette có chủ đề "Hát Cho Kỷ Niệm" vào các năm 1983 và 1988. Tự đệm lấy dương cầm với phần phụ họa của Văn Phụng và vài nhạc sĩ, Quỳnh Giao trình bày lại những ca khúc đẹp nhất của tân nhạc với lời giới thiệu của các nghệ sĩ Vũ Thành, Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Thái Thanh, Kim Tước, Châu Hà, Mai Thảo, Lê Văn, Duyên Anh, Bùi Bảo Trúc, Phạm Văn Kỳ Thanh, v.v... Qua năm 1986, Quỳnh Giao cũng được nhà văn Duyên Anh mời trình bày đĩa nhạc "Còn Thoáng Chiêm Bao".

Cùng giai đoạn ấy, Quỳnh Giao cộng tác và lưu diễn một số nơi với nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nhưng cơ hội không nhiều vì sinh hoạt văn nghệ chưa phát triển rực rỡ như sau này. Đáng chú ý thì năm 1988 và 1989 đã cùng Kim Tước và Mai Hương trình bày nhạc Cung Tiến với dàn nhạc thính phòng của nhạc công người Mỹ tại miền Bắc, miền Nam California, Chicago và Minnesota.

Đấy là lúc khán giả biết đến những ca khúc mới và thuộc loại khó diễn tả nhất của Cung Tiến, như 10 bài Vang Vang Trời Vào Xuân phổ thơ Thanh Tâm Tuyền. Và nhất là tác phẩm Hoàng Hạc Lâu, phổ thơ Thôi Hiệu qua phần cảm dịch của Vũ Hoàng Chương.

Sau khi tái giá với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa - sau này là nhà bình luận hợp tác với các đài phát thanh quốc tế và các tờ báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ - Quỳnh Giao qua California sinh sống kể từ 1991. Trong môi trường sinh động và đông đảo người Việt tại miền Tây Hoa Kỳ, Quỳnh Giao có cơ hội mở rộng hoạt động tân nhạc.

Quỳnh Giao lần lượt thực hiện nhiều đĩa nhạc có giá trị nghệ thuật, đa số với hòa âm của Duy Cường, như Khúc Nguyệt Quỳnh (1992), Tiếng Chuông Chiều Thu (1996), Chiều Về Trên Sông (1997), Ngàn Thu Áo Tím (1998), Hành Trình Phạm Duy (1999), Hình Ảnh Một Buổi Chiều (2000), Tình Khúc Văn Phụng & Hoàng Trọng (2001), Thơ Tình Phổ Nhạc (2002), Hoa Xuân (2003), Trở Về Thôn Cũ (2005) và Tình Khúc Phạm Duy (2006).

Ngoài ra, Quỳnh Giao hợp tác với nhiều trung tâm để hoàn thành đĩa Đêm Tàn Bến Ngự - Tình Khúc Dương Thiệu Tước (1995) với tiếng hát Kim Tước, đĩa Tình Khúc Văn Cao (1995) cùng tiếng hát Mai Hương và có những ca khúc ghi âm riêng lẻ trong nhiều đĩa phát hành từ 1993 đến 2006.

Trong giai đoạn này, Quỳnh Giao còn có hai cống hiến khác cho tân nhạc.

Nhờ Quỳnh Giao sống tại miền Nam California gần Kim Tước và Mai Hương, ba chị em trình diễn với nhau nhiều hơn và khi hợp ca thì tự động chia bè rất ăn khớp với sự điêu luyện độc đáo. Từ đó, Ban tam ca Tiếng Tơ Đồng Hải Ngoại ra đời để nhắc về ban nhạc Tiếng Tơ Đồng nổi tiếng trước 75 của nhạc sĩ Hoàng Trọng khi ấy còn ở trong nước.

Đáng kể hơn, là năm 1997 Quỳnh Giao thực hiện cho ban Việt ngữ đài BBC chương trình Suối Nguồn Tân Nhạc Việt Nam. Được phát thanh hàng tuần qua 20 buổi, chương trình thuộc loại "nhạc sử" vì nói về 60 năm tân nhạc cải cách Việt Nam từ thời phôi thai năm 1938 đến sau này.

Quỳnh Giao phân đoạn theo thời gian, theo thể tài và đọc lời giới thiệu với phần minh diễn của các ca sĩ và phần phát biểu của nhiều nhạc sĩ. Nhờ nội dung phong phú và nhạc hiệu là bản Bến Xuân của Văn Cao do chính Quỳnh Giao diễn tả, Suối Nguồn Tân Nhạc được thính giả yêu thích nên là một trường hợp hiếm hoi được BBC cho phát lại lần thứ hai.

Nguyên nhân sâu xa nữa sẽ được hiểu ra sau này là Quỳnh Giao có ký ức rất sâu, đã sống với tân nhạc từ bé, gần gũi với các nhạc sĩ và ca sĩ như trong một đại gia đình nên nắm vững hoàn cảnh ra đời của từng ca khúc.

Người ta thấy được điều này khi đọc Quỳnh Giao.

Các môn sinh của thầy Ưng Quả trong trường Quốc học thì không ngạc nhiên khi thấy Quỳnh Giao cầm bút. Sinh thời, nhà giáo ngày xưa là người lịch lãm tài hoa với ngón đàn nguyệt mà cũng là một cây bút sắc xảo. Quỳnh Giao tiếp nhận được huyết thống ấy, mà có lẽ khi còn thiếu thời đã không tự biết.

Năm 1986, nhân dịp mừng sinh nhật thứ 65 của nhạc sĩ Phạm Duy, từ miền Đông, Quỳnh Giao đã có bài viết được đăng trên tờ Văn Học xuất bản tại California. Sau đó là một bài về nhạc sĩ Vũ Thành vừa tạ thế vào năm 1987. Được sự khuyến khích của nhà văn Nguyễn Mộng Giác khi ấy phụ trách tờ Văn Học, Quỳnh Giao đã viết nhiều hơn từ tùy bút đến truyện ngắn cho Văn Học và các tờ báo định kỳ khác, kể cả Thế Kỷ 21. Khởi đầu là đề tài âm nhạc, gần như một loại tự truyện về thế giới tân nhạc Việt Nam, sau này, Quỳnh Giao mở tầm viết và gây thích thú cho người đọc....

Quỳnh Giao viết về nhạc thì cũng như kể chuyện về các nghệ sĩ bằng hữu của thân mẫu. Nhưng kiến thức sâu sắc về nhạc và về kỹ thuật trình bày còn giúp người đọc nhớ lại và có sự thưởng ngoạn cao hơn với từng tác phẩm, từng tác giả hay người trình diễn. Nhờ vậy, độc giả cảm nhận được giá trị đích thực của các ca khúc.

Khi mở ra loại đề tài như điện ảnh, văn chương hay mỹ thuật, Quỳnh Giao còn cho thấy sự am hiểu rộng lớn và thấu đáo. Với văn phong nhẹ nhàng, cái nhìn tinh tế và cách nói khiêm nhưòng dí dỏm về mình, Quỳnh Giao lôi cuốn bạn đọc và dần dần có một thành phần bạn đọc riêng.

Những điều ấy trở thành rõ rệt khi Quỳnh Giao cộng tác với giai phẩm Xuân của Việt Báo và nhật báo Người Việt trong mục "Tạp Ghi" với những bài định kỳ mỗi tuần. Tạp Ghi Quỳnh Giao là mục ăn khách trên Người Việt kể từ năm 2005. Cho đến nay thì đã có gần 500 bài.

Không chỉ đọc Quỳnh Giao, người ta còn nghe thấy tiếng nói thanh quý rất ăn micro của người nghệ sĩ. Những ai còn nhớ tới Quỳnh Giao trong chương trình Suối Nguồn Tân Nhạc năm xưa cùa BBC tìm lại được tiếng nói đó qua mục Vòng Chân Trời Văn Học Nghệ Thuật với nhà báo Lê Đình Điểu của đài phát thanh VNCR. Sau này, khi Người Việt TV thành hình từ Người Việt On line, Quỳnh Giao xuất hiện trên màn ảnh trong chương trình "Câu Chuyện Văn Nghệ" cùng Nam Phương hay Lê Hồng Quang. Đấy là lúc khán giả thấy ra "cây bút Quỳnh Giao" bằng xương thịt, với lối ứng khẩu tự nhiên và nhu mì để nói về đủ loại đề tài hấp dẫn.

Trong khi đó, ở nhà, Quỳnh Giao tiếp tục việc dạy đàn và mở lớp luyện giọng.

Tháng 10, năm 2011, tờ Người Việt cho xuất bản Tạp Ghi Quỳnh Giao, một cuốn sách thuộc loại ăn khách với 67 bài trên hơn 400 trang. Qua năm 2012, Quỳnh Giao chuẩn bị hoàn thành cuốn thứ hai thì ngã trong vườn và bị thương nặng. Sau một cuộc giải phẫu công phu vào Tháng Năm, việc sử dụng tay phải đã bị trở ngại. Lớp dạy đàn mở ra từ mấy chục năm trước coi như chấm dứt.


*
Mùa Xuân 2014, Quỳnh Giao tưởng mình ho vì bị cảm lạnh. Sau một tháng chữa trị bình thường mà bệnh vẫn không dứt. Vào một đêm của đầu Tháng Ba khi bị mất giọng, Quỳnh Giao mới được xe cấp cứu đưa nhà thương và hôm sau thì như bị sét đánh. Ung thư phổi. Điều này là bất ngờ vì trước đó không hề có triệu chứng gì, kể từ khi chiếu điện vì gãy cánh tay mặt.

Sau hơn bốn tháng giải quyết bằng hóa trị rồi xạ trị, Quỳnh Giao suy yếu dần về thể lực mà thần trí vẫn minh mẫn lạc quan. Cho đến khi phải thường xuyên dùng ống dưỡng khí và đối phó với nhiều biến chứng thì tình hình trở thành nguy kịch. Đêm Thứ Ba rạng ngày Thứ Tư 23 Tháng Bảy, Quỳnh Giao lặng lẽ gỡ ống dưỡng khí và ra đi thanh thản trong giấc ngủ trước sự bàng hoàng ngơ ngác của chồng con.

Quỳnh Giao làm đẹp cho đời bằng tiếng hát tuyệt vời và những bài viết về nghệ thuật về mỹ thuật. Người ta thấy yêu đời và yêu người hơn khi nghe hay đọc Quỳnh Giao.

"Lòng Ta Ở Với Người" là tên một ca khúc của Trần Dạ Từ mới được Quỳnh Giao ghi âm mà chưa phổ biến. Có lẽ đấy cũng là lời ca rất đúng về tấm lòng của người nghệ sĩ vừa ra đi.... 


_________________

Ngày 29 Tháng Bảy 2014 là lễ phát tang của Quỳnh Giao tại California. Hôm sau là lễ hỏa táng theo nghi thức Phật giáo. Nhân dịp này, Dainamax trình bày tiểu sử gần như là đầy đủ và hoàn chỉnh về người nghệ sĩ....

Quỳnh Giao Viết

Quỳnh Giao Ngày 090102

Trịnh Bách - Tài Hoa Một Cõi 

* Đại danh cầm của thế kỷ 20 - Andrés Segovia *

 
Có hai nghệ sĩ chơi Tây ban cầm mà có cùng một chí hướng - là mở tiệm bán đàn!

Một người mở tiệm tại phố Hàng Gai ở Hà Nội rồi di cư vào Nam dạy đàn cho tới khi cả nước đứt dây năm 1975. Ðó là Dương Thiệu Tước, nhạc sĩ có công khai phá nền tân nhạc Việt Nam. Ông sinh năm 1915 và tạ thế năm 1995.

Người kia thì ở một cõi xa hơn nhiều.

Ðó là Sophocles Papas, ra đời trước Dương Thiệu Tước chừng chục năm và ra đi cũng sớm hơn mươi năm (1894-1986). Papas là bậc thầy trứ danh và có công quảng bá nghệ thuật Tây ban cầm trong một lớp học kéo dài hơn sáu chục năm tại thủ đô Hoa Kỳ. Y như Dương Thiệu Tước sau này ở thủ đô Hà Nội, Papas mở tiệm bán đàn tại đường Connecticut, một di tích lịch sử đã từng phục vụ từ tổng thống đến người dân giả.

Hai nghệ sĩ ấy còn giống nhau một điểm, là có một đứa học trò... không giống ai!'

Ðứa học trò đã từng thọ giáo Dương Thiệu Tước tại Sàigòn - và luôn luôn nhắc lại điều ấy - sau này sống tại miền Ðông Hoa Kỳ. Thấy trong niên giám điện thoại có quảng cáo tiệm đàn của một bậc thầy là Papas, cậu bé lần mò tìm tới. Chẳng lẽ Sophocles Papas còn sống hay sao? Mà nghe nói tiệm này mở cửa mãi từ 1922...

Bước vào tiệm đàn, cậu bé thấy choáng ngợp trước nhiều cây đàn quý và nhẹ gỡ xuống một cây, cậu bắt đầu gẩy vài tiếng. Chiều đó, tiệm đàn hơi vắng, ngoài nhân viên bán đàn thì chỉ có một ông già cù lần mới bước vào. Quấn khăn áo sù sụ, ông già thơ thẩn trong tiệm, mân mê lau chùi tủ kính. Có lẽ là người phu dọn dẹp.

Ðược thể, cậu bé lả lướt vài đường cho lão già nhà quê kia biết tài dân Việt!

- Cậu là ai, đang làm gì vậy? Ông lão già bước lại nghiêng đầu hỏi.

- Thì đang thử đàn chứ có gì đâu! Cậu vênh váo trả lời và... chộ bịa thêm vài ngón trước đôi mắt trợn tròn của ông lão. Chữ “chộ bịa” này là do chính đương sự kể lại. Mà cụ là ai vậy?

- Mi có tất cả những tật xấu nhất mà tao thấy trong đám học trò của tao!!! Tao phải dạy lại mới được. Tao là Papas!

Chính cậu bé đã kể như vậy về mối duyên vì sao cậu lại được học ngón đàn Sophocles Papas.

Trong thế kỷ 20, có lẽ Papas chỉ nhường bước cho người bạn già là Andrés Segovia. Học trò Tây ban cầm của hai nhân vật huyền thoại ấy đều phải là danh thủ xuất chúng.

Và cậu bé đó chính là Trịnh Bách, diệu thủ guitar classic của Việt Nam!

Không chỉ học Dương Thiệu Tước và Sophocles Papas, Trịnh Bách còn được đến tận nhà ở xứ Tây Ban Nha theo học Andrés Segovia. Chuyện ấy, bây giờ thì ai cũng biết. Ít người ngờ rằng anh còn được danh thủ dương cầm Mieczyslaw Horszowski mời về nhà, và ở lại cả tháng để học hỏi thêm về nhạc. Horszowski gọi đó là “đàm đạo”! Ông cụ sống rất thọ đến 99 tuổi và chỉ lấy vợ khi đã 89 xuân xanh. Bà vợ ông cũng là một diệu thủ dương cầm người Ý. Bà Bice Costa chăm sóc ông chồng thiên tài như một đứa trẻ trong một tuần trăng mật kéo dài mười năm.

Thế giới của giới nghệ sĩ đó không giống như chúng ta thường nghĩ. Trịnh Bách đã học từ những người như vậy. Nhờ thế, mình biết thêm là các bậc đại sư về âm nhạc không truyền thụ như người thường!

Trong một năm thọ giáo ngôi Bắc đẩu về guitar classic của thế giới, Trịnh Bách không học đàn như ta có thể tưởng tượng. Mỗi ngày, hai người trên hai ghế đối diện cùng đánh, lâu lâu Maestro Segovia buông ra một câu. “Chỗ này phải trong hơn. Gẩy lại được không? Phải sáng nữa mới được! Khoảng trống này phải rung cho đầy thì mới đẹp...”

Trong số học trò của Segovia, nay đã là bậc thầy nổi tiếng hoàn vũ, có những danh cầm như John Williams người Úc, Julian Bream người Anh, Christoper Parkening người Mỹ, Michael Lorimer cũng người Mỹ, hay Alirio Diaz người Venezuela, Antonio Mebrado người Tây Ban Nha, v.v...

Như Quỷ Cốc Tiên Sinh trong truyện cổ, Segovia nhận xét về từng môn sinh. Giàu có nhất sẽ là Christopher Parkening. Khó tính nhất là John Williams. Nghệ thuật nhất có lẽ là Michael Lorimer. Còn Trịnh Bách? “Có tâm hồn nhất.”

Nên có khi bỏ đàn!

Trịnh Bách đã trình tấu ở nhiều hội trường danh tiếng của thế giới, kể cả trong Tòa Bạch Cung. Ðôi tay của anh được bảo hiểm bạc triệu - chẳng vậy mà người ta có chữ “diệu thủ” - cho nên khi đi trình diễn và đem theo một cây đàn rất đặc biệt, anh không được quyền ôm. Sợ hư tay. Hãng bảo hiểm quy định như vậy để bảo vệ tài sản được họ bảo lãnh!

Một danh cầm như thế tất nhiên là phải có lúc phục vụ cộng đồng. Trong một lần trình tấu cho cộng đồng người Việt tại Virginia, đến lúc du dương thì anh giật mình. Các cụ ngồi hàng đầu gật gù: “Cậu này lên dây đàn hoài vậy mà sao chưa thấy ca!”

Như một trường hợp khác là Lê Ngọc Chân, bỏ việc dạy nhạc trong một đại học danh tiếng Hoa Kỳ để trở về khôi phục âm nhạc Việt Nam, Trịnh Bách cũng đã buông đàn xuống giữa đời.

Chữ “xuống” nên được hiểu theo nghĩa đen.

Anh trở về Việt Nam tìm hiểu và khôi phục chèo cổ rồi nhiều bộ môn âm nhạc khác, và vất vả không ít với các ông cán bộ. Anh đi xuống những xã ấp xa xôi hẻo lánh để tìm ra nghệ sĩ cổ truyền đích thực, và còn kiếm tiền giúp họ sinh sống để dạy lại và giữ lại những ngón nghệ thuật sẽ mai một. Anh vận động để một đoàn chèo được qua Mỹ trình diễn và buồn không ít khi những nghệ sĩ thật đã bị gạt lại, để nhân tình của các quan chức được đem chuông đi đấm nước người, và nhún nhẩy trên sân khấu chèo với bước chân ballet học của Cuba trong tranh phục lòe loẹt.

Nếu không là tư vấn của các định chế nổi tiếng tại Hoa Kỳ và được nhiều người Mỹ quyền thế biết tên thì có khi Trịnh Bách đã bị trục xuất hoặc lãnh những cái mũ không thể ngờ trên đầu! Ngày nay, bao người ca ngợi anh đã phục chế nhiều y phục cổ truyền hay bộ môn nghệ thuật cung đình tại Huế. Ít ai ngờ là trước khi những tác phẩm ấy được chú ý, được tòa đại sứ Hoa Kỳ triển lãm, hay được Tổng Thống Bill Clinton ghé thăm, Trịnh Bách đã bị phiền nhiễu không ít. Nhiều vị có chức có quyền đã chụp lấy những “phát hiện” của anh đem ra kinh doanh và muốn xóa luôn vết tích là người nghệ sĩ.

Mấy chuyện ấy, người viết xin nhường cho ba dấu chấm than để khỏi phải viết thêm!!!

Từ đã lâu, ở bên Mỹ, Trịnh Bách đã chú ý tìm hiểu về trang phục cổ truyền của Việt Nam.

Anh gặp xin bà dì của người viết để mượn xem và xem kỹ từng chút nhiều áo dài rất quý còn lại trong nhà. Dì Ngọc Lan của người viết, bà đại sứ Vĩnh Thọ, còn giữ lại những báu vật của hai bên nội và ngoại. Bên họ nội là tấm áo của Tôn Nhân Phủ, bên họ mẹ là chiếc áo dài của Công Chúa Mỹ Lương, con gái vua Dục Ðức và chị vua Thành Thái. Trong đại gia đình, các cô con gái lên xe hoa đều được mặc áo công chúa và chỉ một lần đó thôi. Có tìm hiểu kỹ thì mới biết màu hồ thủy của áo này hay màu tím của áo kia là những biểu tượng hay quy ước rõ rệt về phẩm phục của triều đình. Ðây là những bảo vật sẽ phải được tặng lại cho viện bảo tàng.

Trịnh Bách cũng là người tận tụy giúp đỡ việc cải táng thân phụ của người viết là học giả Ưng Quả. Anh đã liên lạc với nhiều người trong họ, bên dòng Tuy Lý tại Huế, để đưa hài cốt người quá cố ra khỏi sân vườn trước nhà cạnh phủ Tuy Lý lên tới một nơi yên lành hơn, là sân trong chùa Thiên Hòa.

Bài này được viết như một lời tri ân và cảm phục vì từ 15 năm nay, Trịnh Bách cố đưa nghệ thuật cổ truyền của Việt Nam tới một nơi yên lành để có thể tồn tại. Anh làm được việc ấy vì nhiều người ngoại quốc đã biết và chú ý, nhờ đó mà thiện chí và tài năng của anh không bị cản trở.

Hành trình từ Dương Thiệu Tước, Papas hay Segovia có thể đã dứt vì anh chọn một con đường chông gai hơn, mà đáng quý chừng nào. Bây giờ, Trịnh Bách đã tiệp màu với xã hội Việt Nam, lượn xe hai bánh đi tới những ngõ ngách khốn khổ nhất để tìm ra những nghệ nhân đích thực và tạo điều kiện cho họ dựng lại những gì đẹp nhất, đã có một thời bị coi là phong kiến, đáng chôn vùi.

Tâm hồn ấy của Trịnh Bách khiến chúng ta phải ngậm ngùi và bái phục.


____________________

Từ Việt Nam, Trịnh Bách gửi lại bài này cho "Chị Trang" và tụng kinh niệm chú cho đến ngày 49 của Nghệ sĩ Quỳnh Giao. Dainamax xin giới thiệu lại để thấy rằng chúng ta sống và yêu nghệ thuật đến chừng nào.... 

Thứ Sáu, tháng 7 25, 2014

Ðường Chiều Lá Rụng



Quỳnh Giao 2013


(1946-2014)


Một buổi chiều cuối năm Quý Tị đầu năm 2013 chúng tôi cùng hát với nhau dù chỉ được một phần cả Ngàn Lời Ca của Phạm Duy. Trong có 24 tiếng, anh chị em cố gắng tổ chức một buổi sinh hoạt impromtu mà trang nghiêm trong tinh thần tưởng niệm, Quỳnh Giao nhận lời hát Kỷ Niệm Ðường Chiều Lá Rụng.

Kỷ Niệm là ca khúc vừa sáng tác xong là Phạm Duy đưa cho con bé Quỳnh Giao hát trên đài phát thanh. Hơn hai chục năm sau đó, khi mình còn ở miền Ðông và thực hiện lấy băng nhạc Hát Cho Kỷ Niệm theo lối thủ công nghệ, ông cẩn thận gửi lời giới thiệu qua một cassette. Ðấy là kỷ niệm khó phai, nghe lại là nhạt nhòa nước mắt.

Còn Ðường Chiều Lá Rụng là một dấu ấn khác của Phạm Duy, được ông viết khi còn trẻ, vào năm 1965, căn cứ theo tập nhạc “Hát vào Ðời” xuất bản năm 1969. Nhưng trong cuốn “Ngàn Lời Ca,” thì ông viết từ năm 1958, sau khi đi du học bên Pháp về. Ðiều này có lẽ cũng đúng, vì ông đã áp dụng những điều học được cho ca khúc. Ðây là bài hát có nhạc thuật cao nhất của ông, với nét ngũ cung u uẩn và những chuyển đoạn liên tục, vừa khó hát, khó nghe và khó hòa âm.

Năm đó, khi vừa ráo mực, ông đưa tác phẩm cho nhạc sĩ Vũ Thành. Là trưởng phòng văn nghệ của đài Phát Thanh Sài Gòn và trưởng ban nhạc đại hòa tấu và hợp xướng Phương Hoa, Vũ Thành cũng cộng tác với đài Tiếng Nói Tự Do của Hoa Kỳ, chuyên phát các chương trình ra miền Bắc. Nổi tiếng khó tính, Vũ Thành lưỡng lự khi soạn hòa âm, vì Ðường Chiều Lá Rụng không dễ viết.

Nguyên tác của Phạm Duy là nhịp ý dìu dặt thiết tha trên ton Si thứ với nhiều quãng năm giảm (quinte diminué) làm nhiều ca sĩ trẹo lưỡi. Hát đúng giọng thì phải xuống nốt Fa thăng thấp (dưới hàng kẻ ba dòng) và lên nốt Fa thăng cao nhất (dòng kẻ thứ năm). Vũ Thành sửa lại, dùng nhịp 4/4 theo lối chậm rãi kể lể của một bản Slow và viết nhiều nốt liên ba (triolet) trong toàn bài, rồi còn hạ một cung, tức là ton La thứ. Viết xong, Vũ Thành quyết định thu thanh cho chương trình của đài Tiếng Nói Tự Do để phát ra Bắc, và vì thế trong Nam mình không được nghe.

Ông chọn Thái Thanh để trình bày tác phẩm bất hủ này. Ðấy là một chọn lựa tuyệt vời.

Thường ngày Thái Thanh vẫn nổi tiếng là cường điệu. Bà làm cho ca khúc thổn thức rũ rượi hơn và nồng nàn hơn nguyên bản. Nhưng với Ðường Chiều Lá Rụng qua hòa âm Vũ Thành thì mọi lối quằn quại điệu nghệ bỗng nhiên biến mất. Bài hát quá khó, khiến bà phải cẩn trọng từng chữ, hát sai và không theo dàn nhạc thì Vũ Thành “quạt” ngay, chẳng nể nang ai cả!

Thái Thanh hát nghiêm chỉnh, lại có cả dàn phụ họa của Anh Ngọc, Nhật Bằng, Phượng Bằng, Kim Tước, Mai Hương và Quỳnh Giao nữa, nên ca khúc là một tuyệt chiêu.

*

Như có lần người viết đã kể, khi di tản năm 1975, tài sản duy nhất được Vũ Thành đem theo là một số băng ghi âm các ca khúc quý giá ông thực hiện cho đài Tiếng Nói Tự Do. Trong đó có Ðường Chiều Lá Rụng.

Tại hải ngoại, khi thực hiện đĩa nhạc thứ hai với tên Tiếng Chuông Chiều Thu, Quỳnh Giao chọn Ðường Chiều Lá Rụng vì yêu mến tác phẩm trứ danh này. Nhưng đưa cho Duy Cường nghe tape nhạc Vũ Thành thì bị lắc đầu: “Em không bao giờ làm giống ai và chẳng bị ảnh hưởng của ai hết!” Ðúng quá chứ! Rồi Duy Cường cũng loay hoay mãi không viết được. Anh không chịu đổi qua nhịp Slow như Vũ Thành, dù nhịp này dễ hát hơn nhiều.

Cuối cùng Duy Cường hòa âm theo kiểu ad lib, là tự do, chẳng có nhịp gì hết.

Cái khó là xưa nay ca sĩ hát ad lib thì nhạc sĩ đệm theo, chứ bao giờ lại có sự ngược là nhạc sĩ đàn ad lib và ca sĩ phải hát theo! Cường nói: “Chỉ có chị mới hát theo dàn nhạc được, và vì chị nên em mới thử nghiệm điều này.”

Hôm thu âm tại phòng thu Tomlinson, Phạm Duy đến nghe. 

Cô cháu hát thử câu đầu “chiều rơi trên đường vắng có ta rơi giữa chiều” bằng hai cách. Cách thứ nhất gần giống lối diễn tả của Thái Thanh, là láy vào chữ “vắng” và chữ “rơi.” Cách thứ hai là chỉ láy vào chữ “ta” mà thôi. Và hát rất đều giọng, nghiêm trang. Phạm Duy chọn cách thứ hai. Viết lại như vậy để chúng ta hiểu ý người sáng tác.
Cho tới giờ, dường như số người hát Ðường Chiều Lá Rụng chỉ đếm trên đầu ngón tay của một bàn tay. Riêng Phạm Duy thì nhắc đến ba người là Thái Thanh, Kim Tước và Quỳnh Giao. Mà người nghe chắc cũng ít. Nhạc đã thế, lời ca lại chẳng nhắm vào cảm quan mà đầy não tính...

Quỳnh Giao đã viết nhiều nên không dám nói thêm về các lời từ của Phạm Duy khi ông đưa tình yêu lên tận cõi chết. Ðường Chiều Lá Rụng là một tiêu biểu rực rỡ và rã rời nhất với hình ảnh đầy chất siêu thực. Nhưng giờ đây, khi ông đã ra đi, mà mình hát lại với nước mắt lưng tròng thì ca khúc lại tái sinh như một bức họa.

Ông chuyển cung như dùng màu sắc để đổi ánh sáng và có nhiều câu báo hiệu lối viết sẽ thấy ở Trịnh Công Sơn về sau.

Một kỷ niệm cuối là khi ghi âm bài này với hòa âm của Duy Cường, Quỳnh Giao đã ỷ vào chỗ thân tình mà xin sửa một chữ ở câu cuối! Phạm Duy nghe lại, gật gù và cho phép!

Chiều tan trên đường tối, có ta như rã rời
Hồn ta như gò mối, đang chờ phút đầu thai.


Quỳnh Giao xin phép hát là “Hồn ta như gò mối, im chờ phút đầu thai...”

Lá đã rụng, ông đã im. Chúng ta đang chờ ông trở lại.

_____________________________

Ngay sau khi Phạm Duy tạ thế vào Tháng Giêng năm 2013 thì tại California, nhiều thế hệ yêu nhạc của ông lập tức tổ chức một buổi cùng nhau tưởng niệm người nhạc sĩ trong tiếng hát. Sau đó, Quỳnh Giao viết bài tạp ghi này về ca khúc Đường Chiều Lá Rụng của ông. Dainamax xin giới thiệu lại đây để chúng ta hiểu rõ hơn về Quỳnh Giao, khi lá đã rụng, người đã im... 

Quý vị có thể nghe Quỳnh Giao trong ca khúc bất hủ này qua mạch dẫn sau đây:

 https://www.youtube.com/watch?v=T1mIPJC7POc

Tạp Ghi Quỳnh Giao

Luân Tế - California Tháng 10 2011

Khúc hát càng cao càng ít người thưởng ngoạn


Hình bìa cực đơn giản của cuốn Tạp Ghi



Khi Quỳnh Giao mời tôi đến trám chỗ vài phút giữa hai bản nhạc trong chương trình ra mắt cuốn Tạp Ghi thì tôi hỏi QG là tôi nên ứng khẩu hay là viết lách đàng hoàng. QG muốn tôi ứng khẩu. Nhưng khi nhận được cuốn Tạp Ghi, bìa mầu tím rất nhã, cầm trong tay, đọc lại một lần nữa những bài đã đọc, thì tôi cảm thấy có thể những lời nói ngẫu hứng của mình không xứng đáng với những gì QG viết nên tôi ngồi xuống viết một bài ngắn dùng làm sườn cho cuộc nói chuyện hôm nay.

Nghệ sĩ Việt Nam thường chỉ làm “đơn nghiệp”, tức là chỉ có một nghề, hay chỉ có một tài.  Nghệ sĩ Cải Lương thỉnh thoảng sang hát vài bài tân nhạc. Ca sĩ có tiếng và đẹp trai hay đẹp gái được mời đóng phim. Nhưng chuyện đổi nghề này vẫn thuộc vào cái gọi là nghệ thuật trình diễn. Không thấy nhà thơ nào đi đóng kịch hay nhà văn nào đi hát, kể cả hát Karaoke.

Vì không sinh hoạt trong cộng đồng, có thể tôi không biết rõ, nhưng có lẽ chỉ có vài người trong giới nghệ sĩ trình diễn có khả năng viết lách. Một trong những người đó là ca sĩ QG.

Người Việt ta có một câu rất đểu là, “văn mình, vợ người”. Văn mình thì guarantee phải hay hơn văn người khác và vợ người khác thì of course, naturellement là đẹp hơn vợ mình.

Tôi cũng có viết được dăm ba cuốn sách, nhưng lúc ngồi ở vườn sau, đọc đến hết trang 415 trong cuốn Tạp Ghi của Quỳnh Giao thì tôi ngửng lên nhìn trời, ngẫm nghĩ, ngậm ngùi cho thân phận viết lách của mình một lúc rồi nhìn vào trong nhà, thấy một bóng dáng thân  thuộc, cảm thấy câu trên là sai, phải sửa lại thành : “Văn người - Vợ mình”. Cuốn sách của QG chứng minh cho vế thứ nhất. Kim Thanh, vợ tôi có mặt hôm nay, là minh chứng cho vế thứ hai.

Tôi biết, hay nói đúng là nghe, QG hát từ hồi còn trẻ. Sau này đi vào giới truyền thanh, văn nghệ nên có dịp gặp QG trên đài phát thanh, đài truyền hình. Sang Mỹ thì cũng chỉ gặp lại nhau vài lần vì tôi không giao thiệp rộng, và vì ở xa nên không có cơ hội tham dự những sinh hoạt cộng đồng, văn hóa, văn nghệ. Khi bạn bè chuyển cho tôi đọc những bài tạp ghi của QG viết trên NGƯỜI VIỆT Online, tôi thấy hay quá, có viết thư khen QG và gửi cho QG những bài tôi viết. Thành ra chúng tôi đã quen nhau hơn 40 năm, không biết nhà nhau, không biết cả số điện thoại, nhưng lại biết về nhau nhiều hơn qua Internet và email.

Trong cuốn Tạp Ghi gồm 67 bài này, mỗi chữ, mỗi dòng được chọn lựa, đặt xuống, kéo qua, dằng lại một cách cẩn trọng. Những câu, những đoạn mang đầy ý nghĩa, mới, lạ, hơi cao một chút nhưng lôi cuốn người đọc vào những chỗ có lẽ họ không muốn tới nhưng không cưỡng lại được. Quý vị cứ tin tôi đi. Ở vào cái tuổi của tôi, tôi không dễ bị lôi cuốn đâu.

QG viết phần lớn là về nhạc nhưng đây không phải là những bài phê bình âm nhạc mà là những cảm nghĩ chân thành của một người yêu nhạc, có một kiến thức rất rộng và đa dạng về âm nhạc, và sống với âm nhạc suốt cuộc đời.

QG viết về những bài hát, những giọng ca cả Việt Nam lẫn ngoại quốc, về những con người đã để lại, không những trong QG mà thôi mà còn ở hầu hết trong chúng ta, một gia sản văn hóa vô giá. Tôi có cái may mắn là đã được quen, được gặp, được nói chuyện với, được biết, được nghe, được xem hầu hết những nhân vật QG nói tới trong cuốn Tạp Ghi. Và mỗi dòng QG viết về từng người, với tôi, là một kỷ niệm.

Từ mái tóc rất nghệ sĩ của Vũ Thành, đến Lê Thương đứng trong lớp vẽ 5 dòng kẻ thẳng tắp trên bảng đen, đến sự nghiêm nghị của Hoàng Trọng, đến tiếng hát một thời ngắn ngủi của Thanh Vũ, đến cái bất cần đời của Phạm Duy, đến tiếng đàn réo rắt của Đan Thọ, đến Phạm Đình Chương một tay rượu, một tay thuốc lá lừng khừng trên sân khấu, đến Thái Thanh trong phòng thâu tại đài Tự Do, đến Mai Hương với chiếc răng khểnh, đến Văn Phụng với nét mặt bon papa thiếu một chiếc răng cửa, đến Kim Tước trong thư viện nhạc, đến Anh Ngọc người đóng phim Yêu chung với tôi, đến Nghiêm Phú Phi với nụ cười thật khiêm nhượng so với cái tài thật lớn của ông, đến Hoàng Vĩnh Lộc với giọng nói ngập ngừng…

QG còn viết về các nghệ sĩ ngoại quốc từ Tony Bennett đến Yo Yo Ma đến Charles Aznavour đến Maria Callas đến Nữ Hoàng nhạc Soul Aretha Franklin đến Luciano Pavoratti đến Edith Piaf đến Mozart đến “dòng sông xanh” của Strauss…đến sự tích của “trở về mái nhà xưa – “come back to Sorrento, Phạm Duy làm lời Việt.

Và khi QG viết về những đề tài này thì “mười phân vẹn mười”, cả đối tượng của bài lẫn văn phong.

Có một nhà văn người Mỹ mà tôi không nhớ tên nói: Những người viết tiểu thuyết thường là chân thật hơn những người viết tiểu sử tự thuật.

Lý do là tiểu thuyết gia biết là mình bịa chuyện và nhận là mình bịa chuyện. Còn những người viết tiểu sử tự thuật lúc nào cũng nghĩ là mình viết ra sự thật. Và cứ đọc mãi những lời mình viết về mình thì đâm ra tin vào những gì mình viết về mình.

Những bài tạp ghi có cùng một mẫu số chung với những tác phẩm tự thuật. Đó là họ thường dùng ngôi thứ nhất – tôi – trong câu văn. QG vì là đàn bà nên được quyền xưng tên một cách rất dễ thương (bạn thử tưởng tượng ra cái cau mày khó chịu của mình khi nghe anh Nguyễn Đình Toàn xưng tên trong bài viết của anh – chẳng hạn như… thay vì “Quỳnh Giao cho là”… thì thành “Nguyễn Đình Toàn cho là”….). Nghe nó làm sao ấy.

Chỉ có cái khác là trong các bài tiểu sử tự thuật, cái tôi là chính, là trọng điểm của bài văn. Còn trong những tạp ghi của QG thì cái tôi được dùng một cách rất khiêm nhượng trong việc đưa tới cho người đọc những cảm nghĩ vụn vặt nhưng lắng đọng và đầy ý nghĩa của tác giả về một bài hát, một giọng ca, một nhạc sĩ, một cây đàn, một sự kiện trong lịch sử âm nhạc có thể ai cũng biết, ai cũng nghe, nhưng ít khi ngừng lại để suy nghĩ, phân tích và viết xuống.

Khác với những người viết tiểu sử tự thuật, người viết tạp ghi chủ quan nhưng không đề cao cái tôi của mình (Muốn tìm biết QG đã làm những gì thì quý vị phải đọc ở trang bìa sau, với một tấm ảnh nhỏ mặc áo dài tím, đeo kiềng vàng rất xinh). Cho nên viết Tạp Ghi thật là dễ và cũng thật là khó. Và tạp ghi của QG rất chủ quan vì nó đưa ra những nhận định riêng của người viết. Chẳng hạn như:

- Về bài “Việt Nam Minh Châu Trời Đông” của nhạc sĩ Hùng Lân, QG viết :

“UY NGHI, LẪM LIỆT VÀ NHÂN BẢN NHẤT VÌ PHƠI PHỚI HỒN NƯỚC MÀ KHÔNG SẮT MÁU ĐÒI PHANH THÂY UỐNG MÁU QUÂN THÙ”.

Đã từ lâu tôi vẫn mong một ngày nào đó VNMCTD được chọn làm quốc ca vì thấy bài này hay quá, hùng tráng quá. Tôi chỉ biết là mình muốn mà không biết tại sao. QG đã giải thích cái tại sao đó cho tôi bằng câu trên.

Viết về nhạc sĩ Lê Thương, tác giả của Hòn Vọng Phu và của Tuổi Thơ và Thằng Cuội – Cuội ơi ta nói Cuội nghe, ở trên trăng mãi làm chi… QG viết :

“Ở MỘT HOÀN CẢNH TỐT ĐẸP KHÁC, NƯỚC TA ĐÃ PHẢI CÓ MỘT VƯỜN HOA THIẾU NHI MANG TÊN ÔNG”.

Mấy ai nghĩ đến chuyện vinh danh cho người nhạc sĩ có công lớn với văn hóa này? Tôi nghĩ đây là một nhận xét đầy nhân bản, đầy văn hóa của một nghệ sĩ về một nghệ sĩ.

- Muốn biết tại sao người ta gọi QG là Ca sĩ mà không là “Hát sĩ”? Mà gọi thế là đúng. Quý vị về mở computer xem một vài cái YouTube ghi lại những hình ảnh các ca sĩ trình diễn ngày xưa rồi mở cuốn Tạp Ghi, đọc đến trang 281, thì biết.

- Nói về những tác phẩm tạm gọi là “Bán Cổ Điển Tây Phương” của Việt Nam, QG viết: 


"Những nhạc sĩ đó muốn nâng cao trình độ nghệ thuật và mở ra những chân trời khác. Chúng ta thấy họ là những người cô đơn. Họ sáng tác cho chính họ và nhiều khi cũng chẳng mong đợi là tìm ra người tri kỷ trong đám đông”.

QG đã viết dòng này thay cho một số không nhỏ những nghệ sĩ sáng tác, gồm đủ mọi bộ môn văn hóa, nghệ thuật.

- Khi nói về Debussy, tác giả của La Mer, QG nhắc lại một câu trả lời của ông lúc còn bé đi học nhạc: “Nghe thấy sướng là nhạc pháp.” Các nhà phê bình văn học có thể đem văn chương của QG ra mổ xẻ từng dòng từng chữ. Nhưng riêng tôi, sau khi đọc xong tập Tạp Ghi này, tôi chỉ biết nói là: “Đọc thấy sướng là văn phong”.

Khi đọc Tạp Ghi QG, chúng ta còn khám phá ra cái thường được gọi là “những viên ngọc nho nhỏ” trong văn chương. Ví dụ như:

-Đây là một vài dòng nói về bản nhạc “Bolero” nổi tiếng:

Ban đầu nó mơ hồ cất lên từ hư vô, nhưng chỉ sau vài giây đã có gì đó day dứt lay gọi. Sau đó, nó là tiếng sáo bay bổng giữa dàn giây làm người nghe muốn đứng dậy, uốn éo….Nó là một vũ khúc ngày càng dậm dật thôi thúc với nhiều nhạc cụ đan lượn nỗi day dứt ban đầu, rồi cứ trào dâng, lả lơi, mời gọi….

-Quý vị thử nghe câu này QG viết về lúc người ca sĩ không còn ca nữa, kịch sĩ không còn đóng kịch nữa:

…Cũng như nghệ thuật nấu ăn, nghệ thuật giã từ sân khấu là phải….để cho đời thèm…”.

Có những đầu bếp muốn người ăn nhiều đến khi bội thực. Có những nghệ sĩ muốn chết già trên sân khấu. Ít người nghĩ đến chuyện này. Lại càng ít người thực hiện được chuyện này.

-Về Văn Cao, QG viết:

“QG cứ buồn mãi về hoàn cảnh đất nước và tâm trạng riêng của ông khiến các ca khúc đã gây xúc động cả CHIẾN TRƯỜNG lẫn TÌNH TRƯỜNG”.

Câu này chúng ta có thể gán cho nhiều nhạc sĩ như… Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Trần Thiện Thanh. Ai cũng biết điều đó nhưng viết thành một câu, dùng những chữ CHIẾN TRƯỜNG lẫn TÌNH TRƯỜNG” như trên chắc chưa ai làm được.

-Trong một bài khác, QG viết:

“Người hát hay làm thính giả yêu bài ca, làm hồi sinh khúc nhạc, làm lời ca sống mãi… Sau rồi… người ta quên cả nhạc sĩ lẫn ca sĩ, chỉ còn nhớ tác phẩm và những rung động mà bài hát cũ đã gợi lại”.



Thật vậy, có những bản nhạc tôi nghe say mê từ hồi còn mê nhẩy đầm và nhớ mãi. Có một bài bắt đầu là: “Yêu nhau trong cuộc đời, mơ duyên tình dài, gắn bó đôi lời.” Lúc đó tôi không biết tác giả là ai, ai hát, chỉ biết tên bài là “Ngăn Cách”. Nhưng khi “Ngăn Cách” được hát lên với giai điệu boston trong vũ trường thì thế nào tôi cũng phải kéo đào ra sàn nhẩy. Bây giờ mỗi lần có “Ngăn Cách”  là tôi kéo vợ ra sàn nhẩy.

QG còn cho tôi cơ hội học thêm tiếng Anh. Chẳng hạn như khi cô dùng chữ “Tâm Ca Da Đen” để dịch điệu nhạc “Soul” thì thật là tuyệt vời. Tôi là một dịch giả. Và tôi cũng đã nhiều lần tìm cách dịch chữ “Charisma” một cách thật “nhuyễn” trong tiếng Anh sang tiếng Việt nhưng chưa làm được thì QG đã làm hộ tôi bằng cách dịch chữ này là: “Sự cuốn hút thiên bẩm”. Lại còn thêm dấu chấm hỏi (?) đằng sau như thể không biết mình dùng chữ thế có đúng không. Thank you very much, madam!

Trong bài Hội Hoa Đăng, nói về nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, QG viết:

“Khúc hát càng cao càng hiếm người thưởng ngoạn.”


Chúng ta thay hai chữ “Khúc Hát” bằng những chữ như thơ, văn, kịch, tranh, tượng vv…và câu này vẫn đúng.

Tôi muốn dùng một câu tương tự để kết luận về cuốn Tạp Ghi của Quỳnh Giao: “Sách của Giao kén người đọc”;  cũng như tiếng hát của QG kén người nghe….Nhưng người sáng tác, nghệ sĩ trình diễn không dễ gì đi ngược lại bản chất cố hữu của mình. Và vì thế tôi hy vọng là QG sẽ còn viết nhiều, nhiều nữa. Hát nhiều, nhiều nữa.

Và cám ơn Quỳnh Giao đã cho tôi cơ hội lên đây nói chuyện tâm tình với một thành phần khán thính giả rất chọn lọc.


__________________

Bài phát biểu của kịch sĩ Lê Tuấn tức nhà văn và dịch giả Luân Tế trong buổi ra mắt sách Quỳnh Giao tại miền Nam California vào Tháng 10 năm 2011.