Thứ Bảy, tháng 3 29, 2014

Đối Phó Với Liên Bang Nga



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 140328

Sau Vụ Ukraine, Hoa Kỳ Có Thể Làm Những Gì?

 * Barack Obama nhắm mắt trước bức danh họa "Gác Đêm" của Rembrandt *


Sau khi đã thôn tính bán đảo Crimea, Tổng thống Vladimir Putin còn ỡm ờ dàn trận, trong nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, để gây áp lực với Ukraine và mở rộng ảnh hưởng tại vùng biên vực giữa Liên bang Nga và Âu Châu. Với khả năng quân sự hiện nay, Liên bang Nga của Putin có thể dễ dàng xắn vào khu vực Đông Nam của lãnh thổ Ukraine, nhưng sẽ bị tiêu hao lực lượng khi chiếm đóng. Vì vậy, giả thuyết quân sự ấy có xác suất không cao.
 
Nhưng Putin vẫn có thể nghĩ đến nhiều cách khuynh đảo khác, vào nội tình Ukraine lẫn các quốc gia lân cận...

Gặp hoàn cảnh đó, là quốc gia lãnh đạo khối Tây phương, Hoa Kỳ có thể làm gì?

***
 
Dư luận Hoa Kỳ hiện còn tranh luận về sự ứng phó của Chính quyền Barack Obama sau năm năm quá tin vào Putin để cùng giải quyết nhiều vấn đề của thế giới (chuyện "reset" dớ dẩn và lới hứa "linh động" dại dột). Nếu nhìn xa hơn viễn cảnh của Obama, dù sao cũng sẽ về hưu sau năm 2016, người ta có thể nghĩ đến một hướng đối phó khác.

Trước hết, chuyện Crimea là "sự đã rồi". 

Số phận của Ukraine và 10 quốc gia vùng biên vực mà Putin muốn khuynh đảo để làm vùng trái độn cho Liên bang Nga mới là đáng kể. Đó là, từ Bắc xuống Nam, ba nước Cộng hòa Baltic (Estonia, Latvia, Lithuania), sáu nước Đông Âu là Ba Lan, Cộng hoà Tiệp, Slovakia, Hung, Romania và Bulgaria, qua đến Georgia nằm giữa Hắc hải và Biển Caspian. 

Với Crimea, lý luận đúng sai về pháp lý chỉ có tính cách ngoại giao và chính trị, tức là cần thiết mà không làm thay đổi được cục diện ít ra trong nhiều thập niên. Với các nước còn lại, ở khu vực chiến lược của Âu Châu, thì Hoa Kỳ và các nước Âu Châu phải suy nghĩ lại về đối sách. Suy nghĩ để chủ động đối phó, và tuyệt nhiên từ bỏ thái độ hiện nay là "chỉ phản ứng theo mỗi bước đi của Putin".

Việc chủ động đối phó phải khởi sự từ nỗ lực rà soát lại chiến lược phát triển - cả an ninh lẫn kinh tế - của Liên hiệp Âu châu, với sự hợp tác cũng an ninh và kinh tế của Hoa Kỳ. 

Vì Liên Âu chủ hòa và chỉ mong phát triển kinh tế, kể cả qua hợp tác với Liên bang Nga, Hoa Kỳ luôn luôn bị động khi có chuyện xảy ra tại Âu Châu. Nhưng khi phải quyết định thì lại gặp sự bất nhất của các nước Âu Châu với nhau. Hoàn cảnh đó tạo cơ hội cho Putin gây ly gián trong quan hệ Âu-Mỹ.

Từ việc rà soát chiến lược và quan hệ Âu-Mỹ-Nga, Hoa Kỳ cần nhìn lại và khẳng định vai trò của Minh ước NATO. 

Kết quả sẽ phải dẫn tới việc cụ thể là thực hiện hệ thống phòng thủ chiến lược BMD (phi đạn chống hỏa tiễn đạn đạo) tại Đông Âu và Trung Âu. Nghĩa là xúc tiến dự án đã được Hoa Kỳ thời George W. Bush đề nghị cho Ba Lan và Tiệp mà lại bị Obama hủy bỏ. Cũng trong hệ thống bảo vệ của NATO, Hoa Kỳ sẽ tăng cường sự hiện diện, dù chỉ tượng trưng, tại khu vực Baltic. Điều này đã có thể bắt đầu.

Song song là nỗ lực vận động bốn nước trong "Nhóm Visegrad" là Ba Lan, Hung, Tiệp và Slovakia có lập trường thống nhất hơn trước mối nguy của Liên bang Nga. Nhóm này được lập ra từ năm 1991 cho nhu cầu phối hợp giữa các nước từng là nạn nhân của Đế quốc Nga và Liên bang Xô viết, để ứng phó với Liên bang Nga. Nhưng sau đó, nội tình lại thiếu thống nhất cũng vì quan hệ kinh tế với nước Nga, thí dụ như quan điểm ôn hòa của Tiệp và Hung trong vụ Ukraine - chỉ vì lý do kinh tế. Xứ nào cũng muốn bênh Ukraine mà lại sợ bị thiệt về kinh tế.

Tiếp theo, Hoa Kỳ phải là quốc gia thực sự lãnh đạo khi vận động toàn khối Âu Châu cùng thống nhất đối sách và nếu được NATO bảo vệ thì các nước Âu Châu cũng phải góp phần tối thiểu để giữ vững tấm khiên này.

Riêng với Liên bang Nga, Hoa Kỳ cần có lập trường cương quyết hơn, với lời hăm dọa là sẽ hủy bỏ hai hiệp ước New START và INF (võ khí hạch tâm tầm trung, Intermediate-Range Nuclear Force). Trong một kỳ khác, chúng ta sẽ trở lại hồ sơ này, được thành hình từ thời Barack Obama và có lợi cho Nga hơn cho Mỹ. Nếu đặt lại vấn đề về START và INF, Hoa Kỳ chẳng tốn kém gì hơn nhưng thực tế mở ra cuộc thi đua võ trang sẽ làm Liên bang Nga hụt hơi.

Ra khỏi lãnh vực an ninh chiến lược, một lãnh vực an ninh khác cũng phải được Liên Âu thực hiện, với sự hỗ trợ, thực tế là lãnh đạo của Hoa Kỳ. Đó là an ninh kinh tế. Chính vì quá lệ thuộc về kinh tế với Liên bang Nga (năng lượng và đầu tư), Liên Âu đã trao cho Putin sợi dây xiết cổ. 

Hoa Kỳ có thể tháo gỡ sợi dây đó bằng cách giúp Liên Âu tìm ra nguồn năng lượng thay thế, kể cả khí đốt của Hoa Kỳ, từ nay phải được phép xuất cảng. Đồng thời, Hoa Kỳ phải khuyến khích Âu Châu vượt nỗi lo về môi sinh mà phát triển kỹ thuật khai thác dầu và khí từ đá phiến (fracking). Muốn như vậy, lãnh đạo nước Mỹ cũng phải thay đổi chiến lược năng lượng của mình, từ khai thác, bảo vệ môi sinh, sản xuất đến xuất cảng, và tận dụng sức mạnh của dầu, khí và cả than đá. 

Một quốc gia triệt để hỗ trợ Ukraine và sát cánh với Âu Châu và Hoa Kỳ là Canada. Xứ này sẽ sốt sắng hơn khi nước Mỹ tăng cường hợp tác và phát triển kỹ thuật fracking. Trong kho võ khí năng lượng để phá vòng kiềm toả của Nga, nước Mỹ không thể quên năng lượng Canada, cho tới nay vẫn bị kẹt ở ngoài biên giới Hoa Kỳ với dự án Keystone XL chưa được thông qua vì áp lực của các nhóm bảo vệ môi sinh trong hệ thống chính trị Obama.

Ngoài năng lượng và trong kinh tế, Hoa Kỳ còn có một định chế quốc tế thuộc vòng ảnh hưởng của mình vì nước Mỹ góp tiền nhiều nhất, chính là Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF. 

Định chế này có quy cách viện trợ theo bài bản cổ điển, với điều kiện máy móc và lý tưởng khiến quốc gia cầu viện dễ bị khủng hoảng chính trị nếu phải áp dụng. Thí dụ như phải chấm dứt chế độ trợ giá xăng dầu để giảm bội cho và chóng quân bình ngân sách. Hoa Kỳ có thể can thiệp để tránh tình trạng "giải phẫu không thuốc mê" như vậy. 

Putin muốn gây áp lực mọi mặt để chính quyền lâm thời của Ukraine tại Kyiv có thể sụp đổ vì những lý do kinh tế, xã hội và chính trị. Nhưng thật ra, liều thuốc đắng của IMF có thể khiến con bệnh Ukraine bị đột quỵ trước khi Putin ra tay. Cho nên, việc IMF đồng ý viện trợ cấp cứu 18 tỷ đô la cho Ukraine cần được tiến hành theo tinh thần khác: không hành hạ xứ này vì những di hại của chế độ Viktor Yanukovych mà theo đà phục hồi sẽ từng bước cải thiện cơ chế kinh tế Ukraine cho tự do và lành mạnh hơn.

Sau cùng, quan trọng và cấp bách nhất, Hoa Kỳ phải cương quyết bày tỏ tinh thần liên đới và sát cánh với dân chúng Ukraine. Đây là lúc nước Mỹ cần chứng tỏ rằng mình là một đồng minh khả tín, một quốc gia có khả năng lãnh đạo và đáng tin. Thông điệp này có giá trị cho cả Âu Châu và toàn thế giới. 

Tuần qua, việc hai đảng Dân Chủ và Cộng Hoà đánh nhau về ngân sách liên quan tới chính sách của Hoa Kỳ với IMF là một thông điệp bi hài. Nhìn rộng ra ngoài thì sự suy nhược về đối ngoại của nước Mỹ trong năm năm qua là một cám dỗ lớn cho Putin. Cho nên, việc điều chỉnh lại để cả khối Tây phương có một chiến lược đối phó tích cực và toàn diện hơn trong những năm tới sẽ phải bắt đầu từ nước Mỹ. 

Danh mục những điều cần làm ngay được tóm lược ở trên có thể là một lộ trình chuyển hướng....

Thứ Tư, tháng 3 26, 2014

Địa Phương Nga Mắc Nợ

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 140326
"Diễn đàn Kinh tế RFA"

Nguy cơ vỡ nợ - và động loạn - tại nhiều địa phương của Liên bang Nga  


000_Par7825052-600.jpg
* Mọi người xếp hàng để rút tiền gửi tại một chi nhánh của Ukraina PrivatBank 
tại Sevastopol hôm 19/3/2014 - AFP photo*



Trong vụ Ukraine với biện pháp chế tài được Liên bang Nga và các nước Tây phương hăm dọa áp dụng với nhau, có một chi tiết kinh tế đáng lưu ý là núi nợ của các địa phương Nga. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về nhược điểm kinh tế và chính trị này của Nga, qua sự phân tích của chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, Khi Liên bang Nga sát nhập bán đảo Crimea và hăm dọa nhiều khu vực của Ukraine thì mâu thuẫn gia tăng giữa Nga và các nước Tây phương. Trong mâu thuẫn này, thế giới theo dõi biện pháp chế tài mà đôi bên sẽ thi thố, với hiệu ứng toàn cầu.

Giữa bối cảnh ấy thì hôm 20 vừa qua, hai công ty lượng giá trái phiếu là Fitch và Standard & Poor's đánh sụt mức khả tín của tín dụng Nga và còn dự báo nạn suy trầm kinh tế của Nga. Khi đó, ta nhớ lại là trong chương trình vào đầu Tháng Ba, khi nói về hiệu ứng kinh tế của vụ Ukraine ông nhắc tới việc 63 trong số 83 địa phương của Nga còn có thể bị vỡ nợ. Vì vậy, kỳ này xin đề nghị ông giải thích chuyện vỡ nợ đó cho thính giả của chúng ta. Trước hết là về các địa phương Nga, thưa ông, đấy là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Nước Nga theo thể chế liên bang khá đặc biệt. Tính đến ngày 18 Tháng Ba tuần trước thì họ có 85 địa phương, gọi là "chủ thể liên bang". Trong số này, hai chủ thể mới là "Cộng hoà Crimea" trong ngoặc kép và Thành phố Liên bang là Sevastopol trong bán đảo Crimea, vừa do Liên bang Nga cưỡng đoạt của Ukraine nên không được quốc tế công nhận. Nói về tổ chức trước khi thôn tính Crimea thì Liên bang Nga có 83 địa phương, chia làm sáu loại, gồm 21 Cộng hoà, chín vùng lãnh thổ gọi là "krais", 46 tỉnh gọi là "oblasts", hai thành phố liên bang, một "oblast" tự trị của dân Do Thái và bốn khu tự trị gọi là "okrugs". Chúng ta sẽ đơn giản gọi chung là "các địa phương" để thính giả khỏi nhức đầu.

- Chi tiết thứ hai đáng nhớ là trên lãnh thổ quá rộng, trải lên chín múi giờ, thì chính quyền trung ương, Phủ Tổng thống hay điện Kremlin, không thể trực tiếp cai trị mà phải tản quyền cho lãnh đạo địa phương, gọi là Chủ tịch nước Cộng hoà hoặc thống đốc, thị trưởng, v.v... Bài toán của trung ương là kiểm soát được sự thần phục của địa phương để tránh nạn ly khai hay độc lập như đã thấy sau khi Liên Xô tan rã năm 1991. Cái yêu cầu muôn thuở, từ thời Đế quốc Nga qua Liên bang Xô viết rồi Liên bang Nga ngày nay, dẫn tới một mâu thuẫn kinh tế là trung ương trưng thu hay tài trợ cho các địa phương để duy trì được hệ thống chính trị của họ?

- Đấy không là vấn đề trừu tượng vì khi Nga bị hiệu ứng của vụ khủng hoảng Đông Á năm 1997 thì nhiều địa phương đòi ly khai để lo lấy thân. Sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991 thì vụ khủng hoảng 1998 này là biến cố thứ hai đe dọa sự tồn vong của Liên bang. Thời đó, ông Vladimir Putin lên làm trùm mật vụ liên bang, hậu thân của cơ quan KGB, trước khi làm Thủ tướng rồi Tổng thống, nên ý thức được mối nguy đó. Ta có nhắc chuyện xưa thì mới hiểu ra rủi ro hiện tại.

Vũ Hoàng: Thính giả của chúng ta quen với cách phân tích của ông là dẫn từ bối cảnh xa xưa đến chuyện hiện tại. Thời đó, vào năm 1998, Liên bang Nga bị khủng hoảng tài chính và ngoại hối, thực tế vỡ nợ. Khi ấy chuyện các địa phương đòi ly khai đã diễn tiến ra sao?

Dư luận quá chú ý đến hậu quả khủng hoảng thời 2008 của các nước công nghiệp hoá nên ít thấy ra mối nguy vỡ nợ của các địa phương Nga và khả năng chống đỡ rất kém của trung ương vì thật ra phương tiện cũng có hạn. Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Năm đó, Liên Xô mới tan rã có sáu bảy năm, công khố Liên bang Nga kiệt quệ và nạn khủng hoảng Đông Á dội về khiến chính quyền trung ương chấn động, lãi suất lên tới 150% và nhiều địa phương bị thiệt hại nặng, thậm chí thiếu ăn, mà không được trung ương cấp cứu. Nhiều khu vực bị nạn bèn giữ lại tài nguyên và thực phẩm trong lãnh thổ để lo cho cư dân của họ, hoặc bất chấp sự cấm đoán của trung ương mà bán đất hay vay nước ngoài như trường hợp của St Petersburg. Trung ương bất lực và Bộ Tư pháp cho rằng gần hai phần ba địa phương vi phạm luật lệ liên bang! Tổng thống Boris Yeltsin bèn đưa ông Putin lên cầm đầu cơ quan An ninh Liên bang FSB rồi vào Hội đồng An ninh để thẳng tay thanh trừng địa phương nào có ý nổi loạn. Qua năm 1999, do sự lãnh đạo của những người thân tín của trung ương, có 46 trong số 89 địa phương theo quy định thời ấy đã đồng ý tập trung quyền lực về trung ương.

- Sau khi lên làm Tổng thống từ năm 2000, ông Putin tiếp tục chiều hướng tập quyền và có tám năm tương đối ổn định nhờ thương phẩm và năng lượng lên giá. Rồi vụ Tổng suy trầm năm 2008 làm Nga lại bị khủng hoảng vào năm 2009 với hậu quả là trung ương thu vén phương tiện cho mình giữ được quân bình ngân sách và trút thiệt hại xuống địa phương. Hậu quả ngày nay là nguy cơ vỡ nợ của nhiều địa phương. Dư luận quá chú ý đến hậu quả khủng hoảng thời 2008 của các nước công nghiệp hoá nên ít thấy ra mối nguy vỡ nợ của các địa phương Nga và khả năng chống đỡ rất kém của trung ương vì thật ra phương tiện cũng có hạn.

Vũ Hoàng: Chúng ta đi vào hồ sơ vỡ nợ ấy. Thưa ông, tình hình thực tế đã diễn tiến thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Từ vụ khủng hoảng 2009, khi kinh tế Nga bị suy trầm nặng, các địa phương đều thiếu tiền và phải đi vay. Tiền vay của nhiều tỉnh đã tăng hơn gấp đôi, từ kim ngạch tương đương với khoảng 35 tỷ đô la vào năm 2010 nay đã lên tới gần 80 tỷ. Cũng S&P còn dự báo là qua năm 2015 thì khoản nợ này sẽ vượt trăm tỷ đô la.

 

Nguy cơ vỡ nợ 


033_RIA13-2337408_2582-200.jpg
Chi nhánh ngân hàng Investbank tại thị trấn Pionersk bị Ngân hàng Trung ương Nga thu hồi giấy phép. Ảnh chụp hôm 13/12/2013. AFP photo


Vũ Hoàng: So với tổng số nợ công của Liên bang Nga thì khoản nợ gần trăm tỷ này có sức nặng hay mức nguy ngập ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tổng số công trái của liên bang và địa phương của Nga chỉ khoảng 300 tỷ, bằng 14% Tổng sản lượng, tức là không nhiều. Nhưng cái khó ở đây là các địa phương không có cơ chế và quy cách xóa nợ hay giảm nợ như chính quyền liên bang tại trung ương. Chúng ta phải tìm hiểu sự kiện chuyên môn ấy thì mới thấy ra ách tắc nguy ngập cho tương lai trước mặt.

- Số là các địa phương mà bị thâm hụt ngân sách thì có thể đi vay qua ba ngả, là ngân hàng, phát hành công trái hay vay ngân sách của trung ương chẳng hạn, mà phải được trung ương cho phép vì khi đi vay là họ mặc nhiên cạnh tranh với trung ương trên thị trường tài chính. Ngân hàng mà cho địa phương vay thì tính lãi suất cao hơn và kỳ hạn chỉ bằng phân nửa của trung ương. Vì vậy, các địa phương đều ưa vay ngân sách của trung ương mà trung ương lại thấy việc tài trợ ấy kém lời nên cũng muốn hạn chế trước sau chỉ cho vau có vài tỷ đô la mà thôi. Hậu quả là các địa phương thiếu tiền mà vay ngân hàng thì lại bị lãi suất đắt hơn, và cao quá khả năng hoàn trái. Theo cơ quan S&P ước lượng thì trong 83 tỉnh thành địa phương thì chỉ có 20 khu vực là có quân bình ngân sách hoặc thặng dư nho nhỏ, còn 63 địa phương kia bị chết kẹt và có thể vỡ nợ.

- Chuyện thứ hai là từ vụ khủng hoảng năm 2009, kinh tế Nga bị suy trầm và thay vì tăng trưởng cỡ 3-4% thì năm ngoái chỉ được 1,3%, và năm nay còn ít hơn như tuần qua nhiều nơi đã dự báo. Vào hoàn cảnh đó, trung ương lúng túng chẳng thế tung tiền chuộc nợ hay cấp cứu địa phương bị nạn và đến hạn kỳ trả nợ. Đã vậy, các địa phương còn bị chính quyền trung ương của ông Putin đòi tăng mức đầu tư và lương bổng để tránh sự bất mãn của dân chúng. Hậu quả là vòng luẩn quẩn vì đầu tư giảm, nợ tăng, ngân hàng mất nợ và tư bản tháo chạy khỏi thị trường Nga, nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước phải đóng cửa hãng xưởng ở địa phương.

Vũ Hoàng: Qua những gì ông trình bày thì hình như trung ương và địa phương đang giành nhau một cái bánh nhỏ hơn trước. Nếu nhớ lại kinh nghiệm từ vụ khủng hoảng 1998 hay 2009, phải chăng bài toán muôn thuở của nước Nga sẽ là làm sao san xẻ quyền lực chính trị và quyền lợi kinh tế giữa trung ương với địa phương? 

Theo cơ quan S&P ước lượng thì trong 83 tỉnh thành địa phương thì chỉ có 20 khu vực là có quân bình ngân sách hoặc thặng dư nho nhỏ, còn 63 địa phương kia bị chết kẹt và có thể vỡ nợ. Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa đúng vậy vì Liên bang Nga chỉ là một xứ nghèo mà có lắm võ khí.

- Mâu thuẫn kinh tế tài chính giữa trung ương với các địa phương đang là vấn đề thuộc loại hữu cơ vì nằm trong cơ chế chính trị của chế độ. Trung ương ngày nay đã mạnh hơn, có gần 700 tỷ đô la trong khối dự trữ ngoại tệ và các quỹ đầu tư hay dự phòng của nhà nước, nhưng các địa phương khó trông đợi gì ở sự cấp cứu của trung ương như ta đã từng thấy năm 2009. Việc một số địa phương nay mai có thể vỡ nợ là điều ngày càng rõ khiến trung ương phải nghĩ tới biện pháp triển hạn nợ hoặc cho ngân hàng quốc doanh lớn nhất là Sberbank tung tiền tài trợ và trông đợi vào nguồn thu nhờ năng lượng vẫn còn cao giá. Nhưng sau vụ khủng hoảng Ukraine, tình hình sẽ đổi khác. Ngoài ra, ông Putin còn gặp nhiều khó khăn trong nội bộ nên thật ra cũng khó xoay trở.

Vũ Hoàng: Thưa ông, những khó khăn đó là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết là sự thần phục chẳng có gì là chắc chắn của nhiều địa phương vì cư dân ở dưới chưa chắc đã nghe theo lãnh tụ do trung ương cất nhắc ở trên. Thứ hai là sự chuyển dịch dân số với đà sút giảm của tỷ trọng của người Nga, da trắng, theo Chính thống giáo, so với các sắc tộc hay tôn giáo khác và so sánh với các di dân nhập cư vào Nga. Vì thế, để giữ quyền thống trị của dân Nga, trung ương phải gánh vác khó khăn của nhiều địa phương bất mãn vì mức sống sa sút.

- Thứ ba, ngay trong nội tình Nga thì phong trào chống đối ông Putin đã manh nha từ năm 2011-2012 và dù có bị dẹp thì tình hình chưa hẳn ổn định. Việc chiếm đoạt Crimea và uy hiếp Ukraine có thể khích động tinh thần dân tộc của người Nga và giúp ông ta có thêm uy thế nội bộ. Nhưng nhiều người Nga quá khích thì không đồng ý với việc trung ương chi tiền trợ giúp di dân và các nước Cộng hòa Hồi giáo ở miền Bắc Caucasus. Ngược lại, không phải người Nga nào cũng đồng ý với chế độ thật ra độc tài và thiếu dân chủ lại dùng võ lực uy hiếp xứ Ukraine.

- Bây giờ, trong hoàn cảnh kinh tế càng thêm khó khăn vì vụ Ukraine và đòn trừng phạt của Tây phương, mối nguy vỡ nợ và ly khai của nhiều địa phương trở thành chuyện có thật. Nếu ông Putin lại dùng bạo lực trấn áp như vào năm 1998, nội tình Liên bang Nga sẽ gặp biến động mới. Đâm ra việc thôn tính Crimea có thể dẫn tới hậu quả bất lường về kinh tế và lan rộng thành khủng hoảng chính trị. Kết luận ở đây vẫn là "lực bất tòng tâm", càng muốn bành trướng thì càng gặp khó khăn kinh tế bên trong một quốc gia thật ra vẫn lạc hậu chỉ sống nhờ bạo lực và năng lượng. Chúng ta rất nên theo dõi chuyện nợ nần của các địa phương bên trong nước Nga.
Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông rất nhiều.

Thứ Ba, tháng 3 25, 2014

Thế Thượng Phong Của Putin



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt Ngày 140324
"Hoa Kỳ Nhìn Từ Bên Ngoài"

Và màn ảo giác của Obama

 * Bạn hay thù, cũng còn phải suy nghĩ đã *



Trên chuyến bay qua Đại Tây Dương để cùng các lãnh tụ Âu Châu thảo luận về đối sách với Liên bang Nga, Tổng thống Barack Obama sẽ ngẫm lại chuyện mộng và thực....

Khi Vladimir Putin làm sĩ quan mật vụ cấp tá của cơ quan KGB và phục vụ tại Đông Đức thì Barack Obama còn là sinh viên. Là sĩ quan tình báo, Putin chứng kiến sự suy sụp và tụt hậu của Liên bang Xô viết từ bên trong, còn cậu sinh viên lý tưởng Obama thì bất mãn về nhiều vấn đề xã hội bên trong nước Mỹ.

Khi Liên Xô tan rã, Putin hậm hực ngẫm lại tư thế đại cường của nước Nga. Còn Obama thì mơ chuyện cải tạo xã hội Hoa Kỳ theo quan điểm tiếp nhận được từ nước ngoài, nơi ông sống trong tuổi thiếu niên, và từ các nhà lý luận cực tả, thậm chí cộng sản như chính ông đã viết trong hồi ký.

Ngày nay, sự khác biệt ấy kết tinh vào một mâu thuẫn: khi cả thế giới chấn động về vụ Putin cưỡng đoạt Crimea và uy hiếp Ukraine thì Chính quyền Obama ưu lo chuyện sai biệt lợi tức và bất công xã hội. Chúng ta sẽ có dịp trở lại chuyện xã hội này vào dịp khác trên cột mục "kinh tế cũng là chính trị.

Nhớ lại thì sau khi đắc cử rồi nhậm chức vào đầu năm 2009, Tổng thống Barack Obama đã nói tới nhu cầu cải thiện quan hệ với Liên bang Nga, qua khái niệm gọi sai là "reset" - the button. Ông muốn hòa giải với lãnh tụ Putin để cùng cải tạo quan hệ quốc tế và lấy một số quyết định ôn hoà hơn vị tiền nhiệm. Khi tái tranh cử, ông cũng nói thầm với Dimitri Medvedev tại Seoul, rằng nhắn với Putin là đợi ông tái đắc cử thì sẽ "linh động" hơn.

Barack Obama không hề nghĩ đến việc gây mâu thuẫn hoặc thậm chí xung đột hay tấn công nước Nga. Năm ngoái, ông còn thiết tha bán cái cho Putin giải quyết các hồ sơ gai góc của mình là Iran và Syria. Chí tình đến thế thì thôi!

Nhưng vì ảo giác của mình, ông không hiểu tâm tư của Vladimir Putin.

Tổng thống Putin đã thấy sự thịnh suy của nước Nga từ thời Liên Xô qua thời Liên bang Nga. Ông ý thức được là nước Nga suy yếu từng bị các đại cường tấn công trong lịch sử. Khi Liên Xô tan rã, lãnh thổ Nga đã mất đất mất người. Sau đó, trong 10 năm khủng hoảng của Nga, lý tưởng dân chủ và tự do của các nước Tây phương, và của Chính quyền Obama sau này, khiến nhiều nước Đông Âu đi theo Âu Châu, cải tạo kinh tế và chính trị, được Minh ước NATO bảo vệ.

Nhìn từ quan điểm của Putin, tấm khiên phòng thủ của NATO chính là mũi công về an ninh: võ khí chiến lược của NATO đã vào sát biên giới Nga, có thể khống chế các biên vực và vùng trái độn để bảo vệ nước Nga. Đằng sau là trào lưu dân chủ được Tây phương cỗ võ, là lý tưởng tự quyết của các sắc tộc. Nghĩa là hai mối nguy khác 1) cho chế độ tập quyền của Putin tại Moscow và 2) cho sự toàn vẹn của lãnh thổ Liên bang Nga.

Khác với tư duy lạc quan của những người tin tưởng vào sức mạnh của tự do và dân chủ, lãnh đạo nước Nga từ thời xa xưa cho đến Putin ngày nay đều bi quan về an ninh của Tổ quốc. Họ đều có phản ứng lấy công làm thủ! Họ không quên rằng vào năm 1916 Tổng thống Woodrow Wilson của Mỹ có thể là tay phản chiến còn hơn Obama, qua năm sau thì các sư đoàn Mỹ đã có mặt tại Âu Châu trong Thế chiến I, khi nước Nga đổi chủ. Nước Đức có thể bị khủng hoảng nặng về kinh tế và kiệt quệ về quân sự năm 1932, chứ qua thời Hitler, chỉ có sáu năm sau, Đức là đại cường Âu Châu, và mươi năm sau khi tấn công thẳng vào lãnh thổ của Nga.

Vì suy nghĩ như vậy, sau khi khống chế Georgia năm 2008, Putin đã uy hiếp Ukraine nhờ võ khí năng lượng là khí đốt vào đầu năm 2009, khi Obama đòi cải thiện quan hệ Mỹ-Nga. Qua năm 2010, Putin cải cách về quân sự v àtung sáng kiến thực hiện chế độ Liên hiệp Quan thuế Âu Á, từ Âu sang Á, để dùng kinh tế và an ninh ràng buộc các nước biên vực. Trong khi đó, Hoa Kỳ vẫn xúc tiến chương trình tài giảm binh bị với Liên bang Nga qua hiệp định gọi là New START, và Obama hủy bỏ việc thiết lập lá chắn phòng thủ tại Ba Lan và Cộng hòa Tiệp do Chính quyền George W. Bush đề xướng.

Nhìn từ bên ngoài, ta thấy ra sự kiên trì hòa hoãn của Tổng thống Mỹ và quyết tâm bành trướng của Tổng thống Nga.

Ngẫm lại thì qua vụ Ukraine, Putin có loại quyết định hợp lý với lý luận của ông ta, và chẳng ngại gì khi bị kết án là tái diễn - hay hâm nóng - Chiến tranh lạnh. Hoặc trở về động thái của Thế kỷ 19! Điều ấy có thể cho thấy trước nhiều nước cờ "lấy công làm thủ" của Putin.

Thí dụ như khuynh đảo nội tình hoặc uy hiếp biên giới Ukaine, khống chế các nước khác trong vùng biên vực, từ ba xứ Cộng hoà Baltic tới Moldova, hoặc gây phân hóa trong nội bộ Liên hiệp Âu châu nhờ võ khí kinh tế, và ly gián Tây phương qua lằn nứt Âu-Mỹ, v.v....

Sau nhiều năm mộng du trong cõi viễn mơ, Barack Obama đang trở về với thực tế phũ phàng và sẽ phải quan niệm lại vai trò của nước Mỹ trong một thế giới không ổn định. Thế giới này vốn không ổn định và xưa nay Hoa Kỳ phải thực hiện chính sách quân bình các thế lực đối trọng ở bên ngoài, để các quốc gia cứ phải gườm nhau mà không xâm phạm vào quyền lợi của nước Mỹ.

Khi hữu sự thì để của đi thay người - người đây là sinh mạng của xứ khác.

Sau hai Thế chiến đầy tổn thất sinh mạng của dân Mỹ, và sau thất bại thê thảm tại Việt Nam, Hoa Kỳ dưới các triều đại Dân Chủ hay Cộng Hoà đều tự điều chỉnh là ào ạt viện trợ về kinh tế và quân sự để khỏi đổ quân vào chiến địa. Sai lầm của Bush trong cuộc chiến đầy hao tốn chống khủng bố Hồi giáo – hao tốn về kinh tế và chính trị hơn là sinh mạng chiến binh – đã giúp Obama đắc cử. Sai lầm của Obama đã khiến Putin có thể mạnh tay làm đảo lộn tương quan lực lượng tại đại lục địa Âu Á. Người sẽ kế nhiệm ông sau cuộc bầu cử 2016 sẽ lại điều chỉnh nữa, để Hoa Kỳ trở về chủ trương cố hữu của mình. Đấy là lúc nước Mỹ sẽ gặt hái thành quả thật ra chẳng có gì bất ngờ, là kinh tế Liên bang Nga sẽ lại hụt hơi và người dân nói đến thời "hậu Putin"....


_________________________

Chuyện chỉ có tại nước Mỹ


Đã nhắc đến một đề tài thời thượng của nước Mỹ là nạn bất công xã hội - thiểu số cực giàu thì càng giàu trong khi thành phần trung lưu lại thấy lợi tức không tăng từ năm năm qua và dân nghèo thì được trợ cấp tới số kỷ lục – xin mách ngay giải pháp của vợ chồng Colin và Andrea Chisholm tại Minnesota. Họ xin trợ cấp xã hội và lãnh phiếu thực phẩm tại Minnesota để... mua du thuyền trị giá hơn triệu bạc và đi xe Lexus du dương tại Florida. Dĩ nhiên là họ đang bị toà án truy tố và nhà chức trách truy nã. Nước Mỹ bất công thật! Nếu thoát án tù, hai vợ chồng có thể mở công ty tư vấn về nghệ thuật gian lận để nhận tiền trợ cấp mà sống đời triệu phú...

Thứ Sáu, tháng 3 21, 2014

Ukraine Tự Phế



Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo 140320

Quân tử động mồm, không động thủ, nên Ukraine bị điểm huyệt

 * Ba Tổng thống Clinton, Yeltsin và Kravchuk xiết tay hồ hởi đầu năm 1994 tại Moscow *

 
Sau mấy tháng nhức đầu về chuyện Ukraine, người viết xin tìm một chút thư giãn trong tinh thần lãng mạn của Kim Dung.

Khi Liên bang Xô viết tan rã năm 1991, có ba cường quốc đứng đầu thế giới về võ khí hạch tâm là, theo thứ tự, Hoa Kỳ, Liên bang Nga và Cộng hòa Ukraine. Sau đó mới đến các nước khác. Ngày nay, trước đà bành trướng ngang ngược của Vladimir Putin, tại bán đảo Crimea rồi nơi khác trên lãnh thổ Ukraine, dân Ukraine có thể nghĩ đến... Kim Dung:

Họ đã lỡ dại tự phế bỏ võ công trong khi các nước danh môn chính phái của người quân tử đã thành những anh tư quẩn.

Đôi dòng lịch sử đã!


***


Từ 1946 đến 1991, vào thời Chiến tranh lạnh - một khái niệm dại dột nhuốm mùi gian trá của các nước dân chủ Tây phương, vì thời đó là chiến tranh nóng ở rất nhiều nơi khác – Liên Xô đã yểm võ khí nguyên tử (rồi hạch tâm, atomic rồi nuclear) trên khắp lãnh thổ, trong nhiều nước Cộng hoà Xô viết.

Khi Liên Xô tan rã nhiều nước của Liên bang này đã giành lại độc lập.

Trong số đó, Ukraine là nước Cộng hoà Xô viết lớn nhất và giàu nhất, chỉ đứng sau Liên bang Nga, với kho ám khí đáng nể là 1.800 đầu đạn hạch tâm, kể cả võ khí chiến thuật có tầm ngắn, oanh tạc cơ và phi đạn thiềm du (cruise missiles). Nhờ tư thế đó, Ukraine có sức gián chỉ, can ngăn - deterrence - bất cứ cường quốc nào muốn nhảy vào làm thịt. Thí dụ như đòi lại bán đảo Crimea mà Stalin giật mất của dân Thát Đát Tatars.

Nhưng Chiến tranh lạnh đã nguội và nếu kho ám khí lớn lao đó của Ukraine mà rơi vào tay bọn hung đồ thì thiên hạ sẽ mất ngủ.

Vì thế, vui hưởng "cổ tức hoà bình" khi nguy cơ chinh chiến đã tàn, Chính quyền Hoa Kỳ thời Bill Clinton vẫn ưu lo về kho đạn Ukraine. Ưu tiên của nước Mỹ khi ấy là phải giải giới Ukraine. Bằng cách hợp tác với Liên bang Nga và mời Ukraine một bánh vẽ là Hiệp ước Không-Phổ biến Võ khí Hạch tâm (Treaty of Non-Proliferation of Nuclear Weapons, viết tắt là NPT, Non-Proliferation Treaty). Kết quả là một Giác thư (Memorandum), chứ không là một hiệp định. Đấy là một văn kiện gọi là Budapest Memorandum on Security Assurance. Ngày nay và mấy tuần qua cứ được gọi tắt là "Budapest Memorandum".

Chỉ vì, Tháng 12 năm 1994, ba cường quốc hạch tâm là Hoa Kỳ, Nga và Anh quốc cùng ký giác thư tại thủ đô Budapest của xứ Hung Gia Lợi, với thỏa thuận là ba nước cam kết bảo đảm an ninh cho Ukraine (cùng Belarus và Kazakhstan). Đổi lại thì Ukraine giao nộp kho võ khí hạch tâm của mình cho Liên bang Nga.

Không, viết như thế vẫn là thiếu xót theo kiểu nhà báo nông cạn của Mỹ – hai chữ này thường là đồng nghĩa. Những cam kết đó còn sâu rộng hơn vậy, xin đọc từng chữ mà nghĩ đến ngày nay:

1) Ba nước cùng tôn trọng độc lập và chủ quyền của Ukraine trong ranh giới lãnh thổ hiện hành; 2) Không hăm dọa hay sử dụng võ lực với Ukraine; 3) Không gây áp lực kinh tế để chi phối chính trị Ukraine; 4) Yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc hành động nếu võ khí hạch tâm được sử dụng chống Ukraine; 5) Không sử dụng võ khí hạch tâm chống Ukraine; 6) Cùng tham khảo ý kiến với nhau nếu có vấn đề về những cam kết nói trên.

Dù chỉ học năm thứ nhất về bang giao quốc tế thì các sinh viên cũng hiểu là trong ba nước Nga, Mỹ, Anh, chỉ Liên bang Nga mới là cường quốc có thể vi phạm những cam kết hoặc gây khó cho Ukraine. Mà giác thư này chỉ là cam kết chính trị, không là một hiệp định được Quốc hội phê chuẩn. Xin ghi thêm rằng cùng Anh, Mỹ, Nga, có Pháp và Trung Quốc cũng ký một văn kiện đính kèm, với những cam kết còn mơ hồ và yếu ớt hơn thế.

Khi ấy, Chính quyền Ukraine có do dự và muốn một thời hạn tự giải giới lâu hơn. Nhưng, Chính quyền Clinton đòi là càng sớm càng hay, kỳ hạn cuối là năm 1996. Bố khỉ, năm đó, nước Mỹ có bầu cử Tổng thống.

Khúc khải hoàn của Hoa Kỳ khi ấy là thế giới có thêm một quốc gia tham dự Hiệp ước NPT! Yếu tố then chốt là vì Hoa Kỳ đã có lời cam kết bảo vệ an ninh, sự vẹn toàn lãnh thổ và vân vân cho Ukraine. Đấy là thành tích 20 năm trước của chàng Xuân Tóc Đỏ Bill Clinton, người hay liếm mép và hút mà không hít.

Ngày nay, đến Cậu Bé Quàng Khăn Đỏ Barack Obama, cũng với giấc mơ giải trừ võ khí hạch tâm cho một thế giới thái hòa.

Đúng năm năm trước, Tháng Tư 2009, tại thủ đô Praha của Cộng hoà Tiệp, Tổng thống Obama hứa hẹn một nỗ lực toàn cầu, một cuộc "thập tự chinh" để kêu gọi các nước cùng noi gương Hoa Kỳ mà tài giảm võ khí hạch tâm. Vì nếu có chuyện gì thì đã có sự bảo vệ của nước Mỹ.

Trong thâm tâm, có thể Tổng thống Hoa Kỳ muốn nhắn gửi với hai quốc gia hung đồ đang đòi luyện công, là Bắc Hàn và Iran. Hoặc để trấn an các nước khác, như Nam Hàn, Nhật Bản, hay Saudi Arabia, rằng khỏi cần những võ khí sát thương đó. Vì?

"Trăm điều hãy cứ trông vào một ta."

Tại sao lại chỉ một ta? Vì nếu có vin vào điều bốn của Giác thư Budapest - sự can thiệp của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc – thì ai cũng yên tâm rằng định chế quốc tế này sẽ thủ vai bà già trầu cầm súng nước, nhờ lá phiếu phủ quyết của Nga trong Hội đồng Bảo an.

Ngẫm lại thì không ai chứng minh được rằng Putin có ý sử dụng võ khí hạch tâm với Ukraine, nhưng đều thấy là quân đội Ukraine hiện không có khả năng chống đỡ khi Putin mắt lạnh sử dụng võ lực. Cũng không ai có thể chứng minh rằng nếu Ukraine vẫn là một cường quốc hạch tâm thì chưa chắc Putin đã dám chơi bạo như vậy.

Nhưng mọi người đều thấy là Anh và Mỹ đều đánh vần "ơ như quả mơ" - làm ngơ về những cam kết năm xưa với Ukraine. Tuần tới, tại Thượng đỉnh ở The Hague, ta sẽ xem Obama nói năng xoay trở ra sao về lý tưởng "An ninh Hạch tâm"!


***

Kết luận ở đây là gì?

Nhiều lắm, chỉ xin lơ thơ vài lẽ mà buồn!

Các chế độ hiền nhân quân tử mà tự phế bỏ võ công, như Ukraine, thì có thể mời giặc vào nhà. Các chế độ hung đồ có thể yên tâm luyện võ hạch tâm mà bất chấp thiên hạ. Các đồng minh của Mỹ mà tin vào lá chắn bảo vệ của Hoa Kỳ thì đều xét lại vì sau vụ Ukraine. Lời khuyên giải giới của nước Mỹ bất lực lại mở ra một cuộc thi đua võ trang toàn cầu.

Đâm ra, các quốc gia thuộc danh môn chính phái đều ưa nói chuyện đạo ly vu vơ, chứ khi hữu sự thì lại núp sau cụ Khổng mà khuyên răn thiên hạ, rằng "quân tử động mồm chứ không động tay." Gọi là anh "tư quẩn" thì chẳng hề sai!

Nhưng tại sao người viết lại ỡm ờ nhắc tới Kim Dung?

Vì nghĩ tới đám tà ma Bắc Hàn và Iran đang âm thầm tự luyện thứ võ công thượng thừa theo Cửu Âm Chân Kinh. Nghĩa là vung đao tự thiến để thành đệ nhất anh hùng. Họ có lý phần nào trong sự tật nguyền đó....