Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 14-0112
Diễn đàn Kinh tề
Nguy cơ suy trầm của các nền kinh tế "đang lên" là điều có thật....
Vừa tuyên thệ nhậm chức hôm Thứ Hai mùng ba vừa qua, tân Thống đốc
Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ, bà Janet Yellen đã phải đối mặt với nhiều
vấn đề nan giải của kinh tế Mỹ. Nhưng thế giới bên ngoài cũng chú ý đến
những quyết định của Ngân hàng Trung ương Mỹ vì sóng gió đã nổi lên tại
các quốc gia đang phát triển ở mọi lục địa. Qua phần trao đổi với chuyên
gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa, Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về sóng gió
này và về hiệu ứng từ Hoa Kỳ.
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa
ông, bà Janet Yellen vừa nhậm chức Thống đốc Ngân hàng Trung ương Mỹ vào
tuần trước. Tuần này, bà ra điều trần trước Hạ viện Hoa Kỳ vào ngày Thứ
Ba 11 rồi trước Thượng viện vào ngày Thứ Năm 13 và tất nhiên được hỏi
về chính sách tiền tệ sắp tới. Ngoài ra, vị lãnh đạo hệ thống ngân hàng
trung ương Mỹ cũng có thể được hỏi về sự biến động lan rộng tại nhiều
quốc gia trên thế giới và về vai trò của Hoa Kỳ. Chương trình kỳ này của
chúng ta sẽ tìm hiểu về những biến động ấy vì có nhiều nguồn dư luận
cho là các nước đang phát triển có thể bị khủng hoảng nặng khi Hoa Kỳ
thu hồi dần biện pháp bơm tiền đã thi hành trong hơn năm năm vừa qua.
Ông nghĩ sao về vấn đề này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng đây là cơ hội để chúng ta
thấy được ảnh hưởng thật ra vẫn rất mạnh của nước Mỹ trong luồng giao
dịch toàn cầu sau hơn năm năm khốn đốn vừa qua.
- Sau vụ khủng hoảng năm 2008, Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ hạ lãi suất
tới số không và tiến hành ba đợt bơm tiền vào kinh tế với hơn ba ngàn tỷ
đô la, lần thứ ba là Tháng Chín năm 2012, với quyết định mỗi tháng bơm
thêm 85 tỷ đô la cho đến khi tỷ lệ thất nghiệp trở lại mức 6,5%. Trong
tháng qua, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ đã giảm tới mức 6,6% nhưng con số
này không thật vì số việc làm được tạo thêm vẫn còn quá thấp trong hai
tháng liền và nhiều người nản chí hết muốn kiếm việc nên không được kể
vào số thất nghiệp.
- Vừa lên nhậm chức, bà Yellen được hỏi ngay về con số thất nghiệp này
vì vị tiền nhiệm là ông Ben Bernanke đã thông báo là sẽ thu hồi dần
lượng tiền bơm ra và nâng lãi suất khi thất nghiệp hạ tới mức 6,5%. Nói
cho dễ hiểu thì tân Thống đốc phải giải trình là sinh hoạt kinh tế đã đủ
khả quan chưa để đảo ngược chính sách kích thích và nâng lãi suất? Tôi
thiển nghĩ rằng bà Yellen sẽ giải thích là thận trọng tiếp tục chính
sách giảm dần lượng tiền bơm ra hàng tháng cho tới khi tình hình nhân
dụng sáng sủa hơn thì Ngân hàng Trung ương Mỹ mới tăng lãi suất. Đó là
chuyện bên trong nước Mỹ và ta có thể thấy quyết định này vào tháng tới
khi Ủy ban Tiền tệ FOMC của Ngân hành Trung ương Mỹ sẽ được bà Yellen
chủ tọa trong hai ngày 18 và 19.
Vũ Hoàng: Ông vừa nói đến chính sách giảm dần lượng
tiền bơm ra hàng tháng thì hai tháng qua, Ngân hàng Trung ương Mỹ đã hai
lần giảm, mỗi lần 10 tỷ trong số 85 tỷ bơm ra mỗi tháng. Nếu so với ba
ngàn tỷ đã được bơm ra thì con số 10 này có gì là nhiều?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa quả thật là như vậy nếu mình nhìn vào
bên trong nước Mỹ. Từ lần thứ nhất vào Tháng 10 năm 2008 rồi lần thứ hai
vào Tháng 10 năm 2010 qua lần thứ ba từ Tháng Chín năm 2012, Ngân hàng
Trung ương Hoa Kỳ đã bơm ra hơn ba ngàn tỷ trong hơn năm năm cho nên có
thể mất cả chục năm mới trở lại bình thường như vào năm 2007. Nhưng 10
tỷ đô la cũng là lượng tư bản mỗi tháng vẫn ra vào các thị trường tài
chính của hai nước láng giềng là Canada và Mexico hay bảy nước đang phát
triển như Ấn Độ, Brazil, Chile, Indonesia, Thái Lan, Turkey và Ukraine.
Như vậy, qua hai đợt giảm đà bơm tiền, chứ chưa phải là hút tiền về,
Hoa Kỳ đã giảm 20 tỷ, cũng bằng số tư bản hàng tháng vẫn chảy vào chín
nước, và đấy mới là yếu tố làm chấn động các thị trường tài chính thế
giới. Có nước phải tăng lãi suất hơn gấp đôi như Turkey, có nước thì phá
giá đồng bạc như Argentina.
Vũ Hoàng: Sau hơn năm năm bơm tiền kích thích kinh
tế, với đợt sau cùng là bơm ra 85 tỷ đô la một tháng kể từ Tháng Chín
năm 2012 thì nước Mỹ mới chỉ giảm dần lượng tiền bơm ra có 20 tỷ, nghĩa
là vẫn bơm ra 65 tỷ, thì thế giới đã bị biến động. Khi ấy ra mới trở về
đề mục sẽ tìm hiểu kỳ này là hoàn cảnh của các nước gọi là đang lên.
Thưa ông, tình hình rồi đây sẽ ra sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin được nói hai chuyện về bối cảnh trước khi ta đi vào vấn đề.
- Biến động đã khởi sự từ Tháng Năm năm ngoái, khi lãnh đạo Ngân hàng
Trung ương Mỹ thông báo trước là sẽ điều chỉnh chính sách kích thích cho
tinh hơn khi kinh tế Hoa Kỳ có chỉ dấu phục hồi rõ rệt hơn. Lời thông
báo ấy cho thấy Hoa Kỳ sẽ đảo ngược trào lưu tiền nhiều và rẻ áp dụng từ
năm 2008. Các thị trường hưởng lợi nhờ chính sách này của Mỹ bắt đầu
kết luận là lãi suất tại Mỹ sẽ tăng, Mỹ kim sẽ lên giá và tư bản nóng sẽ
chảy về Mỹ. Đó là chuyện thứ nhất.
- Chuyện thứ hai là không chỉ có Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ mà nhiều
Ngân hàng Trung ương khác - như Âu Châu, Anh quốc hay Nhật Bản từ đầu
năm ngoái - cũng áp dụng biện pháp bất thường gọi là QE, gia tăng mức
lưu hoạt có định lượng, tức là ào ạt bơm tiền. Việc bơm tiền ấy khiến đô
la Mỹ, đồng Euro hay đồng Yen Nhật đều xuống giá. Khi ấy, các nước đang
lên đều than là các nước giàu có đã mở ra "trận chiến ngoại hối", mặc
nhiên phá giá để bán hàng cho rẻ hầu thoát khỏi suy trầm. Bây giờ, khi
tình hình kinh tế của khối công nghiệp hóa có vẻ khả quan hơn nên họ
giảm dần việc bơm tiền thì quyết định ẩy lại làm các nước kia bị chấn
động về tài chính và ngoại hối vì làm đồng bạc của họ mất giá. Vì vậy,
vấn đề cũng nằm ở các nước này.
Bức tranh toàn cầu
Vũ Hoàng: Thưa ông, nếu có thể tóm lược cho gọn thì vấn đề ấy là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin được tạm chia thế giới thành bốn nhóm quốc gia tính theo mức lợi tức từ giàu đến nghèo để mình có bức tranh toàn cầu.
- Nhóm thứ nhất có một tỷ 300 triệu dân của các nước công nghiệp hóa
với lợi tức bình quân một đầu người là trên 12 ngàn đô la một năm. Nhóm
thứ hai là các nền kinh tế đang lên gồm có dân số là hai tỷ tư, mỗi
người có lợi tức từ bốn ngàn tới 12 ngàn, đây là nhóm quốc gia năng động
và có tham vọng bắt kịp khối công nghiệp hoá ở trên. Bên dưới thì có
nhóm thứ ba còn đông đảo hơn vì có đển hai tỷ rưỡi thuộc loại có lợi tức
trung bình thấp và bị nguy cơ rơi vào bẫy xập của lợi tức trung bình,
với mỗi người kiếm được từ một cho đến bốn ngàn đô la một năm. Việt Nam
thuộc vào nhóm này và cả tỷ người Trung Quốc cũng chỉ có số lợi tức
nghèo nàn như vậy. Sau cùng là nhóm cực nghèo, đa số tại Phi Châu, gồm
có 850 triệu người một năm chưa kiếm ra được một ngàn đồng, mỗi ngày
chưa có ba đô la để sống.
- Bây giờ, trong vụ tổng suy trầm từ năm 2008, thế giới cứ nói đến cuộc
khủng hoảng của tư bản chủ nghĩa và sự suy sụp tất yếu của khối công
nghiệp hóa, của các nền kinh tế Âu-Mỹ-Nhật. Song song, người ta ngợi ca
sự lớn mạnh của kinh tế Trung Quốc, hay của nhóm BRIC là Brazil. Liên
bang Nga, Ấn Độ và Trung Quốc theo trò quảng cáo của một tập đoàn đầu tư
Mỹ. Nhìn rộng hơn vậy, người ta còn cho rằng nhóm kinh tế gọi là đang
lên sẽ là đầu máy đưa kinh tế toàn cầu ra khỏi nạn trì trệ, suy trầm.
- Thật ra, trong các nền kinh tế đang lên chỉ có Nam Hàn, Đài Loan và
Chile mới đủ điều kiện gia nhập thành phần công nghiệp hoá giàu có. Còn
lại, ngần ấy quốc gia trong nhóm BRIC hay BRICS nếu kể thêm Nam Phi, và
từ Trung Nam Mỹ qua Á Châu, Âu Châu, hàng loạt quốc gia đang ở mé bờ
khủng hoảng, mỗi quốc gia vì một lý do. Việc Hoa Kỳ giảm đà bơm tiền và
sau này sẽ nâng lãi suất không là cái nhân của khủng hoảng mà chỉ là cái
duyên thôi.
Vũ Hoàng: Chúng ta sẽ nói về các lý do đó thưa ông. Cái nhân của khủng hoảng là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi trộm nghĩ rằng hai nước rộng lớn nhất
mà có nhiều khó khăn nhất chinh là Trung Quốc và Liên bang Nga. Trung
Quốc có ưu thế đã tàn là dân số rất đông mà lại ngập trong núi nợ sẽ sụp
đổ và khi đang phải chuyển hướng thì sự chuyển dịch tư bản nóng ra khỏi
trị trường có thể là cái duyên của khủng hoảng khi bónh bóng đầu cơ sẽ
bể. Liên bang Nga có ưu thế đã tàn là giá dầu thô và khí đốt hết tăng mà
còn có thể giảm mạnh do cuộc cách mạng về công nghệ năng lượng trong
các nước công nghiệp hoá, trước tiên là tại Hoa Kỳ. Ngoài ra, Nga cũng
có một núi nợ nguy ngập của 83 địa phương mà chính quyền trung ương
không thể thanh toán nổi. Người ta ít thấy là sau cuộc vui Thế vận hội
mùa Đông tại Sochi, nước Nga mới rơi vào mùa Đông thật!
- Kế tiếp, ta có hàng loạt quốc gia lớn nhỏ như Ấn Độ, Brazil,
Argentina, Turkey, Indonesia, Ukraine đều đang có nhiều vấn đề nội tại
như nhập siêu và thiếu ngoại tệ, hay lạm phát, tham ô, đầu cơ tài chính
trong một thị trường bấp bênh. Thái Lan có nền kinh tế tương đối quân
bình hơn mà bị động loạn chính trị liên miên nên cũng khiến cho giới đầu
tư nản chí mà rút lui. Việt Nam có sự ổn định chính trị trên bề mặt chứ
nền móng kinh tế lại thua kém, bị nhập siêu và thâm hụt vãng lại còn tệ
hơn nên dự trữ ngoại tệ quá mỏng không thể ứng phó được với biến động.
- Trong một giai đoạn khá lâu, tiền nhiều và rẻ từ Hoa Kỳ tuôn qua mấy
xứ đó đã phần nào khỏa lấp thực tế đen tối ở dưới, thậm chí còn tráng
lên một lớp men của đầu cơ tài chính và phồn vinh giả tạo. Khi kinh tế
Mỹ có triển vọng sáng sủa hơn và tư bản như thủy triều rút về thị trường
Mỹ thì các chứng tật bên trong sẽ được phơi bày và càng gặp khó khăn
thì tư bản sẽ rút càng lẹ.
Vũ Hoàng: Trong cả chục quốc gia ông vừa nhắc tới
thì hoàn cảnh mỗi nước lại mỗi khác, thế thì đâu là yếu tố chung có thể
dẫn tới nạn suy thoái kinh tế hay khủng hoảng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta có loại quốc gia xuất khẩu nguyên
nhiên vật liệu gọi là thương phẩm thì bị suy sụp khi thương phẩm mất
giá, là điều đã xảy ra. Chúng ta có loại quốc gia chuyên về xuất khẩu
hàng chế biến thì có lợi khi đồng bạc mất giá so với tiền Mỹ, nhưng phải
trả hóa đơn nhập khẩu đắt hơn và bề nào cũng khó xuất cảng hơn khi Hoa
Kỳ giảm dần số nhập của mình. Chúng ta có loại quốc gia đã hội nhập về
tài chính với các nước giàu và mở cửa cho tiền Mỹ rất rẻ chảy vào kiếm
lời nhờ lãi suất cao hơn. Khi luồng tư bản nóng đó tràn vào thì có thể
thổi lên bóng bóng đầu cơ, khi nó tháo chạy thì bóng bể và gây ra khủng
hoảng. Nguy hại nhất là hoàn cảnh của các nước vay tiền Mỹ rất rẻ trong
ngắn hạn để trút vào dự án dài hạn ở nhà, trả bằng nội tệ, khi giới đầu
tư rút tiền về thì cả kiến trúc bấp bênh đó sụp đổ.
- Yếu tố chung ở đây là trong khung cảnh toàn cầu hóa, các nước có thể
huy động được phương tiện của xứ khác để làm giàu cho mình, thí dụ như
qua đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Nhưng làm gì thì cũng phải có nội
lực và định chế vững mạnh bên trong. Nếu không nghĩ tới đầu tư mà chỉ
muốn đầu cơ thì khi thị trường đảo chiều là mình sụp đổ là điều có thể
xảy ra từ năm nay. Mexico đã bị như vậy năm 1994 và các nước Đông Á cũng
thế vào năm 1997. Vì vậy, nguy cơ suy trầm của các nước là điều có
thật. Nếu có oán Mỹ hay giới đầu tư thì cũng vô ích. Ngân hàng Trung
ương Mỹ chỉ có thể phối hợp với các nước khi chuyển hướng, chứ nhiệm vụ
ưu tiên của vẫn là bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ, như bà Janet Yellen
trình bày trước Quốc hội vào tuần này.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét