Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA Ngày 140219
Diễn Đàn Kinh Tế
Diễn Đàn Kinh Tế
Hiện tượng "sản nhập" của kinh tế Trung Quốc
Những dấu hiệu khó khăn của nền kinh tế Trung Quốc ngày càng rõ rệt
hơn. Nhưng khi nền kinh tế đứng hạng thứ nhì thế giới mà bị suy trầm,
hoặc thậm chí hạ cánh nặng nề thì kinh tế thế giới sẽ bị ảnh hưởng ra
sao? Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi với chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về
kịch bản này.
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, từ đã
lâu trên diễn đàn này, ông nói đến nhiều dự báo không lạc quan về tình
hình kinh tế Trung Quốc và nhắc tới những thử thách hay cơ hội cho các
nền kinh tế khác. Vừa qua, tập đoàn ngân hàng Société Générale của Pháp
lại có một báo cáo công bố tuần trước về kịch bản hạ cánh nặng nề của
Trung Quốc với hậu quả bất lợi cho kinh tế toàn cầu, thí dụ như nếu đà
tăng trưởng kinh tế xứ này từ hơn 10% mà giảm tới mức 2% thì tốc độ tăng
trưởng của kinh tế thế giới sẽ mất 1,5 điểm bách phân. Vì sao lại như
vậy?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ điều đầu tiên mà chúng ta cần
mường tượng ra về Trung Quốc thì phải thấy được nhiều mâu thuẫn quan
trọng. Trước hết, đấy là một quốc gia lớn mà lại rất nghèo. Thứ hai, sau
hơn ba chục năm tăng trưởng khá ngoạn mục, xứ này đang phải đổi hướng
vì những bất toàn trong mô hình phát triển của họ. Thứ ba, vì hệ thống
chính trị bên trong, xứ này khó chuyển hướng êm thấm mà có thể sẽ gặp
nhiều khó khăn, thậm chí rủi ro khủng hoảng và trong giả thuyết ấy, thế
giới sẽ lại bị hiệu ứng, cũng đáng ngại như vụ khủng hoảng tại Mỹ năm
2008 hay của khối Euro năm 2010. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về những
mâu thuẫn này.
Vũ Hoàng: Vâng thưa ông, đầu tiên thì tại sao Trung Quốc có nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới về sản lượng mà lại là một nước cực nghèo?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trung Quốc là một nước lớn, có lãnh thổ
bằng diện tích của Hoa Kỳ mà là một lãnh thổ thiếu hai phương tiện sinh
sống căn bản cho con người là đất và nước. Diện tích khả canh của họ chỉ
bằng một phần ba của trung bình toàn cầu. Nếu tính theo đầu người của
xứ này thì lượng nước ngọt, từ sông hồ đến giếng sâu và nước mưa thì
thuộc loại thấp nhất Á Châu, và Á Châu thiếu nước nhất trong các lục địa
của thế giới. về địa dư hình thể thì lãnh thổ xứ này là một bao lơn
hiểm trở khắc nghiệt vây quanh và nhìn xuống vùng đất tương đối phì
nhiêu hơn ở vùng duyên hải. Xưa nay, biển người từ bao lơn ba phía đổ
xuống vùng Trung Nguyên đã làm nên lịch sử hợp tan của Trung Quốc.
- Với thực tế ấy, lần đầu tiên trong lịch sử, Trung Quốc có hơn 30 năm
tăng trưởng từ 1979 đến 2009, trung bình là tăng 10% một năm. Từ một xứ
có một tỷ 350 triệu người, đà gia tăng ấy quả là đáng kể khiến cho xứ
này có sản lượng kinh tế thứ nhì thế giới sau Hoa Kỳ và trước Nhật Bản
kể từ năm 2010. Nhưng sự thật thì Trung Quốc vẫn là một nước cực nghèo.
Theo thống kê của Bắc Kinh thì chỉ có 60 triệu dân kiếm ra hơn hai vạn
đô la một năm; 60 triệu người thì đông thật, mà vẫn chỉ là thiểu số hơn
4% giữa một tỷ 350 triệu. Trong khi ấy, có khoảng 600 triệu người không
kiếm ra hai đồng một ngày để sống và có 400 triệu người giàu gấp đôi vì
kiếm được từ hai đến bốn đô la một ngày. Vị chi, có một tỷ người Tầu
chưa đạt mức lợi tức là bốn đô la một ngày! Thế giới chỉ nói đến một số
đại gia tỷ phú ở chung quanh đảng mà quên cả tỷ người bần cùng ấy của
Trung Quốc.
Vũ Hoàng: Mâu thuẫn thứ hai mà ông nhắc tới là những bất toàn trong mô hình phát triển của Trung Quốc. Thưa ông, đấy là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trung Quốc đã có 30 năm tăng trưởng ngoạn
mục, chủ yếu là nhờ sức đầu tư rất cao, có lúc lên tới phân nửa của Tổng
sản lượng, còn thì thường xuyên cao hơn 40%. Với sức đẩy lớn lao này
thì quả nhiên là người ta đạt tốc độ hơn 10%. Nhưng nếu mà xét về phẩm
chất hay nội dung thật của tài nguyên được đưa vào sản xuất thì phải nói
đến hiện tượng gọi là "sản nhập" vì nhập lượng ở đầu vào lại có giá trị
cao hơn xuất lượng ở đầu ra. Lý do của sự thể ngược ngạo ấy là người ta
đếm sản lượng ở đầu ra theo trị giá hay giá cả mà cái giá ấy không phản
ảnh giá trị hay những hy sinh mất mát hoặc tốn kém ở đầu vào. Đây là một khái niệm khá rắc
rối về kế toán mà những người làm công tác tuyên truyền của Trung Quốc hay quảng cáo
của quốc tế thường bỏ qua một bên.
Vũ Hoàng: Cũng vì khái niệm kế toán rắc rối ấy, xin ông nhắc lại hoặc đơn cử một thí dụ.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin trước tiên nhắc lại vài phạm trù kế
toán với Anh ngữ để thành phần thính giả trẻ đã có kiến thức về kế toán
tài chính nắm vững được vấn đề. Sau đó là thí dụ.
- Thế giới bên ngoài Trung Quốc chỉ đếm phương tiện đưa vào sản xuất theo mệnh giá hay face value. Người ta đã lầm trị giá (price) với giá trị (value) của nhập lượng (input), rồi kiểm kê xuất lượng (output) để gọi đó là sản lượng (production) mà không khấu trừ nhiều phí tổn (cost) của nhập lượng này. Trong đó có những phí tổn ngầm mà ta phải gọi là "ẩn phí", shadow cost, như phí tổn về môi sinh bị hủy hoại, hoặc phí tổn về thời cơ của tư bản là opportunity cost vì dùng tiền vào chỗ này thì không có cơ hội dùng vào chỗ khác có giá trị hơn.
- Thí dụ dễ hiểu ở đây là nhà nước huy động sức tiết kiệm rất cao của
dân chúng và trả tiền lời ký thác rất thấp, gần như số âm nếu kể thêm
mức lạm phát. Đấy là một hình thái trưng thu hay bóc lột từ gốc. Nguồn
tiết kiệm rẻ này lại được hệ thống ngân hàng của nhà nước đưa vào khu
vực nhà nước là doanh nghiệp nhà nước hay công ty đầu tư của nhà nước ở cấp
địa phương, để thực hiện các dự án sau này được kể là sản lượng kinh tế.
Một cây cầu hay một nhà máy thép hình thành như vậy và được tính là sản
lượng dù có giá trị kinh tế rất thấp. Cầu có hư phải sửa lại và thép có
ế mà nằm chất đống thì vẫn cứ được coi là sản xuất. Chả ai tính ra cái
mất mát của hiện tượng này.
Vũ Hoàng: Bây giờ bước qua mâu thuẫn thứ ba là vì sao Trung Quốc khó chuyển hướng một cách êm thắm mà lại bị rủi ro hạ cánh nặng nề?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Từ cả chục năm nay, lãnh đạo của Trung Quốc
đã thấy vấn đề này, cụ thể nhất là thấy mức đầu tư quá cao so với sức
tiêu thụ quá thấp của nền kinh tế, vì vậy, họ đã muốn cải sửa. Thí dụ
như trong Kế hoạch Năm năm thứ 11, từ 2006 đến 2011, lãnh đạo đảng đã đề
ra yêu cầu nâng cao sức tiêu thụ nội địa, vậy mà kết quả lại trái
ngược. Năm 2000 thì sức tiêu thụ của tư nhân Trung Quốc ở mức 46% Tổng
sản lượng, dù có thấp so với các nước cùng trình độ phát triển thì cũng
chưa đến nỗi nào. Nhưng kết quả thì năm 2012, sức tiêu thụ ấy lại sụt
tới mức 36% của Tổng sản lượng. Sau Đại hội 18 vào cuối năm 2012, việc
chuyển hướng lại được Hội nghị kỳ ba nêu ra vào cuối năm ngoái mà chưa
biết là có thực hiện được hay chăng?
Vũ Hoàng: Thưa ông, đâu là những lý do cản trở việc cải cách này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin lấy một thí dụ khác liên hệ đến
chuyện tiêu thụ lẫn hậu quả cho quốc tế là tỷ giá đồng Nguyên mà họ gọi
là Nhân dân tệ Renminbi để ta hiểu lý do tại sao.
- Trung Quốc đầu tư mạnh, sản xuất nhiều và phải xuất khẩu sản phẩm đó
cho thế giới. Chế độ duy trì hệ thống ngoại hối có kiểm soát, là ghìm
giá đồng bạc thật thấp nếu so với các ngoại tệ mạnh của thế giới như Mỹ
kim hay Euro chẳng hạn. Họ muốn là nhờ tỷ giá thấp mà hàng rẻ và dễ bán
hơn. Khi bán hàng rồi thì nhà nước độc quyền thu về ngoại tệ, thí dụ như đồng đô
la, và lập được một kho dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới, nay lên tới
con số tương đương là ba ngàn 800 tỷ đô la. Bối cảnh ấy che giấu sự thật
là đồng Nguyên được định giá thấp hơn thực tế, hãy tạm lấy một mức thấp
là bằng 10%. Nếu muốn chuyển hướng thì một trong các biện pháp họ nên
áp dụng chính là nâng hối suất đồng bạc thêm 10% so với Mỹ kim chẳng
hạn. Hậu quả sẽ ra sao?
- Hậu quả là công nhân và doanh nghiệp mà góp phần xuất khẩu được một
đô la thì sẽ có lợi tức gia tăng được 10% và nhờ đó nâng cao được sức
tiêu thụ. Đấy là cái "được" của thành phần sản xuất và sẽ tiếp tay điều
chỉnh cơ chế kinh tế lệch lạc hiện nay. Nhưng cái "mất" của biện pháp
này là nhà nước bị mất 10% nguồn thu từ ngoại tệ đem về. Thí dụ cho dễ
nhớ là mất 10% của khối dự trữ ngoại tệ 3.800 tỷ đô la, tức là mất 380
tỷ đô la. Sự thật thì khi duy trì tỷ giá thấp, Trung Quốc đã mất hàng
ngày vì những chênh lệch về xuất nhập khẩu mà chưa bút ghi khoản mất đó.
Bây giờ, với biện pháp điều chính tỷ giá thì người dân được 10% và nhà
nước hợp thức hoá khoản mất đó. Dù thế giới đã khuyến cáo, lãnh đạo Bắc
Kinh vẫn không muốn như vậy nên người dân không được khoản 10% này và
việc điều chỉnh vẫn chưa tiến hành. Lý do ở đây là nhà nước sợ mất tiền
bạc và thế lực của mình, dù rằng cái mất đó lại là cái được của người
dân.
Vũ Hoàng: Đây mới chỉ là một thí dụ cụ thể về lý do cản trở việc chuyển hướng, hẳn là ông còn thấy nhiều lý do khác nữa chứ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Một thí dụ khác là Hội nghị Trung ương Kỳ
ba vào Tháng 11 năm ngoái có để ra việc chuyển 20% dân số từ thôn quê ra
các tỉnh thành trong kế hoạch đô thị hóa. Sự chuyển dịch ấy có nghĩa là
lương bổng và phúc lợi của người dân từ quê ra tỉnh sẽ được cải tiến và
lợi tức gia tăng sẽ nâng mức tiêu thụ của tư nhân trong thị trường nội
địa. Nhưng chính quyền tại các thành phố ở địa phương lại không muốn
gánh chịu khoản tốn kém ấy mà còn lo gia tăng nguồn thu về thuế khóa nên
dồn phương tiện cho các dự án đầu cơ địa ốc. Họ vừa lấy đất của dân, vừa
lập công ty đầu tư tài chính để vay tiền làm ăn. Khi bị hạn chế và kiểm
soát thì họ vay ngoại ngạch, ngoài ngân hàng, trong hệ thống tài chính
chui có mức rủi ro rất cao gọi là shadow banking.
Vũ Hoàng: Như vậy, vì rất nhiều nguyên do phức tạp
trong nội bộ, Trung Quốc sẽ khó chuyển hướng và nguy cơ hạ cánh nặng nề
mới khiến thế giới quan tâm. Khi đó, ta mới tìm hiểu về hiệu ứng Trung
Quốc khi nền kinh tế này bị suy thoái trong những năm tới.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trung Quốc là một thị trường nhập khẩu lớn
của thế giới, trị giá đến 30% của Tổng sản lượng với rất nhiều nguyên
nhiên vật liệu nuôi sống các nước xuất khẩu. Khi kinh tế xứ này bị trì
trệ, với tốc độ tăng trưởng dưới 7%, hoặc suy trầm hay suy thoái mạnh,
thì lượng hàng nhập khẩu sẽ giảm mạnh và gây thiệt hại cho các nước bán
thương phẩm, từ Úc đến Indonesia hay Malaysia và các nước Trung Đông bán
dầu khí. Đấy là một lẽ. Nhưng giá thương phẩm sút giảm lại là điều có
lợi cho xứ khác vì sẽ giảm phí tổn sản xuất của họ.
- Song song, có một khía cạnh còn đáng ngại hơn vậy là Trung Quốc đang
có một núi nợ rất lớn và dễ sụp đổ sau khi đã ào ạt bơm tín dụng để kích
thích kinh tế. Núi nợ lên tới mười mấy ngàn tỷ dô la, trong đó có nhiều
khoản khó đòi và sẽ mất khi sản xuất bị đình trệ. Nếu mà núi nợ này sụp
đổ thì nhiều ngân hàng vỡ nợ dây chuyền và hậu quả toàn cầu sẽ còn kinh
hoàng hơn những gì đã thấy sau vụ khủng hoảng tại Hoa Kỳ năm 2008 hay
tại Âu Châu năm 2010. Người ta nói rằng đây là "đợt sóng thần thứ ba" có
thể xảy ra trong những năm tới. Qua một kỳ khác, ta sẽ tìm hiểu thêm về
đợt sóng này.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa và hẹn lại một kỳ sau.
_______________________________
trung quốc đáng sợ ,
Trả lờiXóalioa
on ap
sua lioa
sua on ap
Thưa bác Nguyễn Xuân Nghĩa,
Trả lờiXóaCháu có một câu hỏi, sau khi đọc bài trên.
Trong một đoạn, bác đã viết, Trung Quốc " lập được một kho dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới, nay lên tới con số tương đương là ba ngàn 800 tỷ đô la
Nhưng ở đoạn cuối, bác cũng viết, Trung Quốc đang có một núi nợ rất lớn, lên tới mười mấy ngàn tỷ dô la"
Núi nợ này của Trung Quốc là nợ nước ngoài, hay nợ trong nước.?Nếu là nợ trong nước thì họ dễ xử lý hơn rồi. Vì họ có thể dùng nhiều biện pháp như đổi tiền , trung thư theo lụât để xí xoá các khoản nợ này.
Theo lệ thường thì người ta phải xử lý các khoản nợ này như thế nào để tránh một cuộc khủng hoảng tài chính như đã xảy ra? Và, Trung Quốc sẽ chọn giải pháp nào?
Thưa bác Nguyễn Xuân Nghĩa,
Trả lờiXóaCháu có một câu hỏi, sau khi đọc bài trên.
Trong một đoạn, bác đã viết, Trung Quốc " lập được một kho dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới, nay lên tới con số tương đương là ba ngàn 800 tỷ đô la
Nhưng ở đoạn cuối, bác cũng viết, Trung Quốc đang có một núi nợ rất lớn, lên tới mười mấy ngàn tỷ dô la"
Núi nợ này của Trung Quốc là nợ nước ngoài, hay nợ trong nước.?Nếu là nợ trong nước thì họ dễ xử lý hơn rồi. Vì họ có thể dùng nhiều biện pháp như đổi tiền , trung thư theo lụât để xí xoá các khoản nợ này.
Theo lệ thường thì người ta phải xử lý các khoản nợ này như thế nào để tránh một cuộc khủng hoảng tài chính như đã xảy ra? Và, Trung Quốc sẽ chọn giải pháp nào?
Thưa bác Nguyễn Xuân Nghĩa,
Trả lờiXóaĐọc xong bài này, cháu có một câu hỏi.
Trong một đoạn bác viết, Trung Quốc "lập được một kho dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới, nay lên tới con số tương đương là ba ngàn 800 tỷ đô la".
Còn ở đoạn cuối, bác viết Trung Quốc đang có một núi nợ rất lớn, lên tới mười mấy ngàn tỷ dô la.
Không biết núi nợ của Trung quốc là nợ nước ngoài hay nợ trong nước. Nếu là nợ trong nước thì dễ dàng cho họ xử lý. Họ có thể dùng các biện pháp cực đoan để giải quyết như đổi tiền, hoặc trưng thu theo luật để xí xoá các khoản nợ này.
Theo thông lệ quốc tế thì người ta sẽ xử lý các khoản nợ này như thế nào để tránh một cuộc khung hoảng tài chính như đã từng xảy ra? Và không biết Trung quốc sẽ lựa chọn giải pháp nào?
Bác vui lòng diễn giải thêm cho độc giả.
Spirit hãy tìm đọc lại trên Dainamax, bài viết Tháng Sáu năm ngoái (2013) về chuyện nợ nần của hệ thống ngân hàng Trung Quốc. Trước đó cũng đã có nhiều bài về vụ này.
XóaSố tín dụng là hơn hai vạn tỷ đô la, nhưng sổ sách thiếu phân minh. Đa số là nợ dân và nợ nhau. Nếu số nợ xấu chỉ ở khoảng 20% của lượng tín dụng đó thì cũng mất bốn nghìn tỷ, cao hơn khối dự trữ ngoại tệ ba nghìn tám hiện nay. Nhiều người ước lượng là sẽ mất sáu nghìn tỷ chứ không ít.
Năm 2000 họ đã có một lần chuộc nợ đắp vốn cho các ngân hàng quốc doanh lớn nhất thì nhà nước cũng chỉ mất 200 tỷ. Lần này sẽ mất gấp 20 lần. Vì là nợ trong nước, họ có thể dùng biện pháp cực đoan nhưng vẫn sẽ có nạn phá sản dây chuyền, kinh tế trì trệ và lạm phát.
Sau đó người dân nghĩ sao?
Họ chắt bóp để dành đến gần phân nửa lợi tức và ký thác vào ngân hàng, phòng xa cho sau này vì họ thiếu rất nhiều dịch vụ xã hội, từ y tế đến giáo dục, hưu liễm. Nếu khoản tiết kiệm đó bị bốc thành hơi thì họ làm gì? Khi thấy các đại gia dùng tiền đó đầu cơ và giàu lớn với những dự án ảo mà mình được trả bằng giấy lộn, dân chúng có chịu ngồi yên chăng?
NXN