Nguyên Lam & Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA ngày 160907
"Diễn đàn Kinh tế"
Kinh tế chính trị học nhập môn, nhức đầu mà cần thiết!
Hôm mùng bốn vừa qua, đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo CDU thất cử nặng
ngay tại địa phương của bà Thủ tướng Angela Merkel, ở vùng Đông-Bắc của
nước Đức. Nguyên nhân là sự chống đối chính sách rộng rãi tiếp nhận di
dân của bà Merkel. Phản ứng đó cũng trở thành phổ biến tại nhiều nước Âu
Châu khác, từ Hung qua Pháp, và ngay tại Hoa Kỳ này, như cuộc tranh cử
Tổng thống đang cho thấy. Nhưng, vấn đề không chỉ là hồ sơ di dân mà còn
là chuyện gì khác. Đó là mọi hệ thống chính trị đều dựa trên ba tầng
hậu thuẫn của quần chúng ở dưới và chính sách kinh tế của từng lãnh tụ
đều nhắm vào việc ban phát quyền lợi cho thành phần ủng hộ mình. Diễn
đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu hiện tượng này để thấy ra ưu điểm của hệ thống
dân chủ.
Trào lưu chống di dân
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam
xin kính chào tái ngộ chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông,
giữa bao tranh luận về chính sách di dân của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ
sẽ ngã ngũ đúng hai tháng nữa thì việc đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo CDU
của Thủ tướng Đức Angela Merkel bị tuột xuống hạng ba trong cuộc bầu cử
hôm Chủ Nhật mùng bốn tại địa hạt của bà Merkel khiến người ta càng chú ý
đến hồ sơ di dân của các đảng phái cầm quyền. Thưa ông, phải chăng,
trào lưu chống di dân đang có vẻ thắng thế tại Âu Châu và cả Hoa Kỳ này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ là cùng lúc, chúng ta cần
làm sáng tỏ ba bốn vấn đề. Quả thật là từ nạn Tổng suy trầm năm 2008,
tình hình kinh tế trở thành khó khăn hơn cho nhiều quốc gia Âu-Mỹ. Nhồi
vào đó là vụ khủng hoảng vì di dân từ Trung Đông và nạn khủng bố trong
gần hai năm qua càng khiến người dân của nhiều nước e ngại kẻ nhập cư xa
lạ. Cho nên tại các nước như Hung, Pháp, Serbia và nay là Đức, ta thấy
nổi lên phong trào chống di dân, chống tự do thương mại và chống cả hiện
tượng toàn cầu hóa. Tại quốc gia hình thành từ di dân là Hoa Kỳ cũng
vậy. Các chính đảng truyền thống đã từng lãnh đạo khối Tây phương đều bị
lúng túng trước những trào lưu mới mà nếu gọi đó là kỳ thị cũng chưa
chắc đã là đúng.
Nguyên Lam: Thưa ông, chúng ta khởi đi từ Hoa Kỳ và từ phản ứng chống di dân, rồi sẽ tìm hiểu thêm về ba bốn vấn đề mà ông vừa nhắc tới.
Khi kinh tế khó khăn thì thành phần bần cùng ở dưới bị thiệt nhất và có vẻ nhạy cảm với lớp di dân mới. Nhưng giới ưu tú đã thành công lại quên chặng đường hội nhập gian nan của chính họ và của gia đình khi mới đặt chân lên nước Mỹ vài chục năm trước rồi gọi đó là kỳ thị. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết, qua 240 năm lập quốc, nước Mỹ
này đã có nhiều đợt di dân khác nhau và đợt sau thường bị đợt trước nghi
ngờ. Người gốc Anh nhập cư trước thì coi dân Scotch-Irish tới sau là
phiêu lưu tứ chiếng. Kế đó, người gốc Tây Âu đã hội nhập với nhau thành
dân Mỹ nói tiếng Anh thì thấy di dân từ Đông Âu hay Nam Âu là quá nghèo,
quá bạo hoặc như người Do Thái là quá gian tham, v.v… Khi tới đây từ 40
năm trước, người Việt cũng có cảm giác là bị nghi ngờ kỳ thị, dù vẫn
được nhiều người Mỹ khác tận tình giúp đỡ.
- Sự thật thì di dân tới sau thường nghèo hơn và mang theo sắc thái
khác lạ. Chừng vài ba phần trăm có khi can tội phạm pháp trên đất nhập
cư nên thiên hạ cứ chú ý tới họ mà quên đại đa số đã phấn đấu thành
công. Họ phấn đấu để tiếp nhận những giá trị mới và dần dần hội nhập vào
dòng chính của xã hội, với con cái thành đạt, nói Anh ngữ ngoài đời dù
vẫn dùng tiếng Mẹ Đẻ trong nhà. Khi kinh tế khó khăn thì thành phần bần
cùng ở dưới bị thiệt nhất và có vẻ nhạy cảm với lớp di dân mới. Nhưng
giới ưu tú đã thành công lại quên chặng đường hội nhập gian nan của
chính họ và của gia đình khi mới đặt chân lên nước Mỹ vài chục năm trước
rồi gọi đó là kỳ thị.
Nguyên Lam: Nếu mình nhìn từ giác độ xã hội và trong trường
kỳ thì quả thật là thế hệ tới sau phải chen chân vào đất mới, rồi mọi
người đều thấy cuộc sống có cải thiện và sắc thái văn hóa của mình còn
làm xã hội này thêm đa dạng phong phú. Nhưng thưa ông, nếu nhìn từ giác
độ chính trị thì tại sao lại có chính sách rộng rãi tiếp nhận di dân và
chính sách hạn chế hay sàng lọc di dân?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta đi vào cốt lõi của vấn đề khi nhìn
vào hiện tượng tôi xin gọi là “phần bánh” chia cho tầng lớp hậu thuẫn
của lãnh đạo. Tại Âu Châu, Hoa Kỳ hay nhiều xứ khác, ta có ba tầng chính
sách di dân tùy theo thực tế về nhân khẩu, hoàn cảnh kinh tế và tùy
theo tính toán chính trị. Thứ nhất là chính sách dễ dàng đón nhận di dân
vì đấy là lực lượng sản xuất bổ xung cho quốc gia tiếp cư khi họ lao
động, đóng thuế rồi con cái thành công sau khi là công dân. Thứ hai là
chính sách chỉ nhận lao động nước ngoài mà không cho gia nhập quốc tịch,
hay nhập tịch. Thứ ba mới là chính sách từ chối di dân. Trong cả ba
trường hợp, tính toán chính trị của giới lãnh đạo là gì? Là xem di dân
có đóng góp gì cho quyền lực của họ không?
- Nếu di dân trở thành công dân và dồn phiếu cho họ thì đấy là đóng
góp. Nếu di dân không bầu cho họ lại dồn phiếu cho đối lập thì đấy là
gánh nặng. Khi kinh tế sa sút, ngân sách bội chi thì giới chính trị
không đợi sự thành đạt của thế hệ con cháu di dân mà nhìn ngay vào bài
toán trước mắt. Bài toán đó là họ có thể thất cử. Các nước Âu-Mỹ đang bị
bài toán ấy, chưa kể là trong tầng lớp di dân vẫn có nhiều người từ
chối hội nhập, ghét văn hóa bản địa và tối thiểu là ngôn ngữ cũng không
thèm sử dụng. Nạn khủng bố Hồi giáo cực đoan càng gây phản ứng e ngại và
dẫn tới chính sách sàng lọc di dân vì lý do an ninh. Các chính đảng
truyền thống, từ trung tả tới trung hữu, đều mất tín nhiệm vì sự nghi
ngại của nhiều thành phần. Kẻ thành đạt sinh sống ở nơi an toàn không
hiểu ra nỗi e ngại đó ở dưới mà gọi là kỳ thị thì cũng chẳng giải quyết
được vấn đề.
“Đóng góp” và “gánh nặng”
Nguyên Lam: Ông vừa nói đến hai khái niệm trái ngược là
“đóng góp” và “gánh nặng”, nhìn từ giác độ chính trị của nhà cầm quyền
hay của giới lãnh đạo. Nguyên Lam xin đề nghị ông khai triển hiện tượng
chính trị đó, nhưng nhìn từ lĩnh vực kinh tế.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta nên thấy rằng không cá nhân nào có
thể lãnh đạo một mình. Lãnh tụ nào, dù là Chủ tịch Tập Cận Bình, Tổng
thống Vladimir Putin hay Barack Obama hoặc hai chuẩn lãnh tụ là các ứng
cử viên Hillary Clinton và Donald Trump tại Hoa Kỳ, đều phải cần quần
chúng. Quần chúng này có thể là người bỏ phiếu, là cử tri đông đảo của
một xứ dân chủ, hay đảng viên của một chế độ độc tài đảng trị. Nhưng đấy
là quần chúng biểu hiện mà chưa hẳn là có thực quyền. Bên trong khối
quần chúng này, một thành phần mới có ảnh hưởng hơn cả, các Trung ương
Ủy viên trong đảng độc quyền hay thành phần nòng cốt có quyền lợi gắn bó
với lãnh tụ. Lãnh tụ cần họ và họ cần lãnh tụ để bảo vệ quyền lợi của
mình. Ở trên, chỉ có vài phần trăm gọi là nòng cốt mới thật sự có quyền.
Trên cùng là Thường vụ Bộ Chính trị hay các đại gia của doanh trường và
chính trường trong một xứ dân chủ.
- Tính toán chính trị của thiểu số trên thượng tầng là phải cầm quyền
và muốn như vậy, phải củng cố quyền lợi cho thành phần nòng cốt của họ ở
chung quanh. Nhiều khi các chính sách kinh tế gọi là “ích quốc lợi dân”
về hình thức chỉ là sự vun vén quyền lợi hay chia phần bánh cho thành
phần cối lõi của mình. Trong một xứ độc tài thì đấy là các nhóm lợi ích,
trong một xứ dân chủ, chính sách ấy có khi chỉ đem lợi ích cho thành
phần này hay địa phương kia, tùy hoàn cảnh xã hội và chính trị vì vậy
mới gây ra ấn tượng là bất ổn hay bất công.
Nguyên Lam: Khán thính giả của chúng ta có thể giật mình
khi thấy như ông muốn đánh đồng cả hai chế độ độc tài và dân chủ khi cho
rằng giới lãnh đạo hay các lãnh tụ của họ đều tính toán như nhau. Ông
giải thích thế nào về hiện tượng đó?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là thực tế của kinh tế và chính
trị nó khác cái nhìn lạc quan thánh thiện của chúng ta và nếu hiểu được
thực tế đó thì mình mới tránh được nạn lạm quyền, tham nhũng hay độc
tài. Lãnh đạo một phong trào lý tưởng mà không có tiền gây dựng cơ sở,
đào tạo cảm tình viên hay cán bộ và quảng bá chủ trương thì chẳng thể có
quần chúng. Có quần chúng rồi, khi đấu tranh hay tranh cử, lãnh tụ cũng
còn cần một bộ phận cốt lõi giúp mình thành công, và nhất là sau khi
thành công là nắm quyền thì bộ phận cốt lõi này lại không bước qua bên
kia. Vì vậy, hệ thống chính trị nào cũng phải tìm ra sự ràng buộc, mà sự
ràng buộc thực tế nhất vẫn là kinh tế. Khả năng diễn giải thực tế phũ
phàng thành chủ trương thánh thiện là trách nhiệm của bộ phận cốt lõi
này, và dân trí càng cao thì tình trạng ngoa ngụy nhập nhằng đó càng
khó. Vì vậy, và đây mới là chuyện chính mà chúng ta cần chú ý: các lãnh
tụ độc tài và chuyên quyền có thể tồn tại lâu hơn giới lãnh đạo dân chủ
vì một nước dân chủ vẫn thường xuyên có bầu cử.
Hệ thống chính trị nào cũng phải tìm ra sự ràng buộc, mà sự ràng buộc thực tế nhất vẫn là kinh tế. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyên Lam: Ông nói tới bầu cử thì ta hãy lấy trường hợp
của một số quốc gia có bản chất độc tài dưới hình thức dân chủ, họ cũng
có bầu cử vậy. Trường hợp của Việt Nam là một thí dụ. Ông giải thích thế
nào về hiện tượng đó?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi rất cám ơn câu hỏi này vì nó giúp ta
thấy ra sự thật. Không một ai lầm lẫn về bản chất của loại bầu cử mà ai
cũng biết trước kết quả, kể cả lãnh tụ độc tài, vì là đảng cử cho dân
bầu. Nhưng mục tiêu của bầu cử không nhằm đưa lên một tầng lớp lãnh đạo
mới. Đấy là hệ thống lãnh đạo cũ, sẽ nhân danh kết quả gọi là bầu cử mà
sàng lọc lại thành phần cốt lõi và chia chác lại những quyền lợi và ràng
buộc để củng cố vị trí của lãnh đạo.
- Sau cùng, từ chuyện di dân là vấn đề nóng trong nhiều năm mà nhìn vào
viễn ảnh mấy chục năm hay cả trăm năm thì ta thấy ra vài ba sự thật sau
đây. Con người ta có thể nói điểu thiện mà vẫn làm việc ác. Chế độ dân
chủ có khả năng ngăn ngừa được cái ác đó vì mở rộng cơ sở tham gia cho
quần chúng đông đảo hơn, đó là thành phần cử tri. Dù thành phần quần
chúng biểu hiện này thiếu thực quyền thì họ vẫn trực tiếp chi phối được
thành phần có ảnh hưởng ở trên. Thí dụ dễ thấy và nóng bỏng chính là
phản ứng nghi ngờ di dân của quần chúng lầm than đông đảo ở dưới. Bước
kế tiếp, chế độ dân chủ cũng đặt ra quy luật bầu cử và nhiệm kỳ lãnh đạo
khiến cho thành phần ta gọi là có ảnh hưởng phải thường xuyên tính toán
lại, vài ba năm là lại có thể đổi ý, nếu không thì lãnh tụ sẽ thất cử!
- Trên cùng, qua từng đợt bầu cử và thay đổi chính sách, thành phần gọi
là cốt lõi cũng thấy có đổi thay vì quyền lợi mà hết gắn bó với lãnh tụ
ở trên. Những chuyển dịch ấy lại được truyền thông báo chí theo dõi và
tường thuật, không nhất thiết là hợp ý lãnh tụ ở trên cùng. Nhờ vậy mà
việc ban phát quyền lợi kinh tế không thu hẹp vào một thiểu số mà mở
rộng hơn cho quần chúng ở dưới. Đấy mới là lý do vì sao nền dân chủ chưa
hoàn hảo và đầy tỳ vết vẫn là hệ thống chính trị ít tệ nhất và nhờ đó
tìm ra giải pháp kinh tế tốt đẹp hơn cho đa số.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích này.
Thưa bác Nghĩa,
Trả lờiXóaCháu xin phép thẳng thắn, nếu có gì mạo phạm xin bác bỏ qua.
Theo góc nhìn của cháu, nên dùng cụm từ "chống ý thức hệ toàn trị Hồi giáo" phản ánh đúng thực tế hơn thay vì "chống nhập cư" hay "chống di dân".
Nếu người nhập cư (hợp pháp hay bất hợp pháp hay tị nạn...) với đa số là người không theo Hồi giáo thì chưa chắc Tây phương phản ứng mạnh như vậy. Phản ứng là có với những người khác biệt văn hóa với mình, nhưng về Hồi giáo lại khác, theo quan điểm của không ít người (kể cả cháu) nó là một ý thức hệ toàn trị, đe dọa thế giới còn hơn cả cộng sản và phát xít. Và phản ứng đó càng mạnh khi truyền thông phương Tây, giới chính trị gia đang bênh vực Hồi giáo, thậm chí cấm tự do ngôn luận khi nói sự thật về xã hội lẫn ý thức hệ Hồi giáo (bằng cách ghép tội kì thị, phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ thù ghét, bài Hồi giáo....).
Các trang mạng xã hội (từ Facebook hay Twitter), thậm chí Youtube của Google, liên tục xóa bài chỉ trích Hồi giáo trong khi thông tin các chính trị gia tham nhũng tiền của các anh Vùng Vịnh ngày càng lộ ra càng nhiều.
Các phản ứng kinh tế là có, nhưng cách giết chết tự do ngôn luận và bênh vực một cách thái quá với ý thức hệ Hồi giáo (thậm chí có những thế lực chi tiền cho các đại học lớn là Oxford "nghiên cứu" bào chữa cho ý thức hệ toàn trị này), kết hợp với khủng bố, với lối sống chẳng giống ai (như buôn bán phụ nữ như nô lệ ngay trên đường phố London hay thực hiện cắt âm vật bé gái, tảo hôn...) được người dân biết được qua phương tiện không chính thống (mạng xã hội trước khi bị chính quyền "thủ tiêu") càng khiến người dân bất mãn và bất cần. Họ coi rẻ đám chính trị gia là một lũ bán nước. Và cháu nghĩ đó là một trong những nguyên nhân cốt lõi của chủ nghĩa quốc gia dân tộc như là một phản ứng ngược của sự bất mãn đến tột cùng.
Cháu cũng là một người bảo vệ lý tượng tự do kinh tế trong khu vực Liên Âu nhưng đứng trước vấn đề Hồi giáo cháu xin chọn giải pháp an ninh trước và cháu hiểu tại sao một số người lại có suy nghĩ lui về bảo vệ biên giới, chống ý thức hệ toàn trị Hồi giáo và không cho người Hồi giáo nhập cư.
Cháu xin chia sẻ một số hiểu biết của cháu. Cháu xin cảm ơn.