Tạp Chí Kinh Tế RFI Ngày 121113
Trung Quốc Và Thách Thức Thay Đổi Mô Hình Kinh Tế
* Công trường xây
dựng một trung tâm tài chính tại Thượng Hải
ngày 12/11/2012. REUTERS/Aly Song *
Duy
trì ổn định xã hội và xây dựng mô hình kinh tế lấy tiêu thụ nội địa làm động
lực tăng trưởng: đó là thách thức lớn chờ đợi ban lãnh đạo mới của Trung Quốc.
Bài toán càng nan giải khi các nhà cầm quyền bị hệ thống chính trị bó tay.
Trong bài diễn văn khai mạc Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18, ngày
08/11/2012 chủ tịch Hồ Cẩm Đào đề ra mục tiêu cho thế hệ lãnh đạo kế tiếp nhân
thu nhập bình quân đầu người lên gấp đôi từ nay cho đến năm 2020. Mục tiêu đó
chỉ có thể hoàn thành với điều kiện trong 8 năm sắp tới, Trung Quốc liên tục
duy trì tỷ lệ tăng trưởng trên 10% như thành tích đã đạt được trong 2 nhiệm kỳ
vừa qua dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Cẩm Đào và thủ tướng Ôn Gia Bảo. Nhờ thế mà
nước đông dân nhất địa cầu đã qua mặt được Anh Quốc, Đức và Nhật Bản để trở
thành nền kinh tế thứ hai thế giới, chỉ thua có Hoa Kỳ. Tuy vậy, nhưng nếu tính
theo thu nhập bình quân đầu người, thì Trung Quốc chỉ đứng hàng thứ 121, tương
đương với Thái Lan.
Đảng
Cộng sản Trung Quốc đang họp đại hội, chuẩn bị đưa một thế hệ lãnh đạo mới lên
cầm quyền trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế đang chựng lại. Do tác động của
khủng hoảng châu Âu và khó khăn kinh tế toàn cầu, GDP của Trung Quốc trong năm
nay không tăng quá 7,5 %. Thành tích này quá kém cỏi để cho phép Bắc Kinh bảo
đảm công việc làm cho người dân, tránh gây bất ổn trong xã hội. Bản thân ông Hồ
Cẩm Đào nhìn nhận là Trung Quốc cần nhanh chóng thay đổi mô hình kinh tế. Đây
là dấu hiệu cho thấy đã đến lúc Bắc Kinh cần xét lại mô hình phát triển vốn dựa
vào xuất khẩu, đầu tư quá tải và chính sách tiền tệ quá dễ dãi.
Nhờ
lấy xuất khẩu làm chủ đạo mà kinh tế Trung Quốc trong một thập niên qua
(2002-2012) đã duy trì tỷ lệ tăng trưởng trung bình là 10% một năm. Thặng dư
cán cân thương mại luôn nghiêng về phía Trung Quốc. Bắc Kinh đang làm chủ một
khoản dự trữ ngoại tệ trên 3000 tỷ đô la hơn hẳn cả so với tích lũy của Nhật
Bản. Lại cũng Trung Quốc là địa điểm hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào bậc
nhất của thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà Trung Quốc được mệnh danh là «cơ
xưởng sản xuất lớn nhất toàn cầu».
Hoa
Kỳ, Nhật Bản và Châu Âu trở thành những đối tác thương mại hàng đầu của Trung
Quốc. Vấn đề đặt ra là cả ba cột trụ kinh tế toàn cầu đó hiện đang gặp khó
khăn, đặc biệt là kể từ sau khủng hoảng 2008-2009, và không còn khả năng tiêu
thụ hàng Trung Quốc với nhịp độ như ở vào thời «hoàng kim".
Ngoại tệ rót vào Trung Quốc trở nên khan hiếm hơn. Trung Quốc vẫn có những lợi thế nhất định, nhưng không còn là nơi có nhân công rẻ so với các nước chậm phát triển hơn. Không có gì chắc chắn là Bắc Kinh bảo đảm được tăng trưởng kinh tế ở ngưỡng 8 %, mức tối thiểu để tạo công việc làm cho đội ngũ lao động quá dồi dào.
Đó
là những thực tế mà các nhà lãnh đạo Bắc Kinh thuộc thế hệ 5 – với hai gương
mặt nổi bật là các ông Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường sẽ phải đối mặt.
Bản
thân Trung Quốc từ 5 năm nay đã ý thức được điều này và đã tiến hành một loạt
các biện pháp cải tổ: nâng cao mãi lực cho người dân, dùng sức tiêu thụ nội địa
làm động lực tăng trưởng. Nhiệm vụ đó chưa hoàn thành và sẽ được chuyển giao
lại cho thế hệ lãnh đạo kế tiếp.
Thành
công hay thất bại của tiến trình cải tổ đó được coi là mang tính định đoạt đối
với sự tồn tại của Đảng và Nhà nước Trung Quốc. Tất cả vấn đề đặt ra là liệu
hai người đứng đầu guồng máy chính trị Trung Quốc tương lai, các ông Tập Cận
Bình và Lý Khắc Cường, có hoàn thành trọng trách đó hay không.
Hai
ngày trước Đại hội Đảng báo Thanh Niên Trung Quốc số đề ngày 06/11/2012 công bố
một cuộc thăm dò dư luận được thực hiện qua mạng internet. Theo đó 75,4% những
người được tham khảo ý kiến cho rằng, bất bình đẳng về thu nhập là một mối đe
dọa đối với tương lai đất nước. Trong lúc chỉ có 31,3% quan tâm đến việc tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế bị chựng lại.
Trong
mắt gần 70% những người được hỏi, cải thiện hệ thống y tế được coi là một ưu
tiên hàng đầu; 60% kỳ vọng an toàn thực phẩm được cải thiện và 62,8% mong muốn
hệ thống giáo dục được nâng cấp.
Nhìn lại quá trình điều hành đất nước sau 2 nhiệm kỳ sắp khép lại của cặp bài trùng Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo, thuộc thế hệ lãnh đạo thứ 4 của Trung Quốc, chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa từ Hoa Kỳ không phủ nhận những thành tựu đã đạt được cho dù cách biệt giàu nghèo và những bất công quá lớn là một hiểm họa đe dọa trực tiếp đến ổn định xã hội của một quốc gia với gần 1,5 tỷ dân.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi
nghĩ rằng có, ở hai mặt chìm và nổi, với cái vị chua ngọt, mà chua nhiều hơn
ngọt, thậm chí hơi đắng. Năm 2002 là khi ông Hồ Cẩm Đào lên làm Tổng bí
thư rồi Chủ tịch Nhà nước, tổng sản lượng kinh tế của Trung Quốc được ước tính
là 1.450 tỷ đô la, tương đương với của Anh Quốc. Tính theo đầu người thì lợi
tức một người dân Trung Quốc là khoảng 1.100 đô la. Mười năm sau, với đà tăng
trưởng trung bình là 10% một năm, Trung Quốc lần lượt vượt qua kinh tế Anh,
Đức, Nhật.
Bây giờ, thế hệ thể tư để lại một nền kinh tế có tổng sản lượng khoảng 7.400
tỷ đô la. Trung Quốc là nền kinh tế hàng thứ nhì thế giới, với GDP cao gấp năm
lần so với di sản họ nhận lãnh được từ thế hệ Giang Trạch Dân, Lý Bằng và Chu
Dung Cơ. Tính trung bình thì mỗi người dân đã thấy lợi tức từ 1.100 đô ma lên
tới 5.400 đô la. Đó là mặt nổi và có vẻ ngọt ngào của di sản kinh tế đang được
bàn giao.
- Cái
mặt chìm là mấy con số vừa nói chỉ là bình quân và không phản ảnh những dị biệt
rất lớn ở bên trong. Các nước tân hưng Đông Á đều có thể đạt mức tăng trưởng
rất cao vào giai đoạn khởi phát hay cất cánh. Nhưng không quốc gia nào lại có
mức dị biệt hay tỷ lệ bất công cao như ở Trung Quốc. Khi Hồ Cẩm Đào rồi Ôn Gia
Bảo cùng nói rằng kinh tế Trung Quốc thiếu công bằng, thiếu cân đối, không phối
hợp và không bền vững, họ đều ý thức được sự khác biệt lợi tức quá lớn giữa các
thành phần dân chúng và các địa phương. Mà khác với ngày xưa, ngày nay, người
dân đã có thông tin và ý thức được sự khác biệt và bất công đó nên đã phản ứng.
RFI: Đấy là cái phần chua của vị
chua ngọt. Nhưng anh còn nói đến vị đắng. Xin anh trình bày cho một số ví dụ cụ
thể.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: -
Vì địa dư hình thể, lãnh thổ bát ngát của Trung Quốc có ba khu vực khác nhau.
Miền Đông ở vùng duyên hải gồm có 15 tỉnh thì tương đối trù phú. Miền Tây là 11
tỉnh và khu tự trị hành chính của các sắc dân thiểu số thì nghèo hơn nhiều. Khu
vực thứ ba là vùng phiên trấn hoang vu từ Tứ Xuyên lên Cao nguyên Thanh-Tạng,
Tân Cương, Nội Mông và ba tỉnh Đông Bắc thuộc đất Mãn Châu cũ thì còn nghèo
khốn và lạc hậu hơn vậy. Chiến lược Đặng Tiểu Bình đã giúp các tỉnh miền Đông
phát triển mạnh nhất vì hướng ra ngoài, nhưng lại bỏ quên các tỉnh ở bên trong.
- Năm
1999, thế hệ lãnh đạo thứ ba là Chủ tịch Giang Trạch Dân và thủ tướng Chu Dung
Cơ đã muốn điều chỉnh đó với kế hoạch "Phát triển Địa khu Tây bộ"
nhằm gia tăng đầu tư vào sáu tỉnh và năm khu tự trị hành chánh bị khóa trong
lục địa ở miền Tây mà không thành. Sau năm 2002, thế hệ thứ tư cũng đòi
khôi phục ba tỉnh Đông Bắc và một phần của Nội Mông trong kế hoạch gọi là
"Chấn Hưng Đông Bắc Lão Công Nghiệp Cơ Địa", rồi kế hoạch phát triển
sáu tỉnh thuộc khu vực Trung bộ gọi là "Trung Bộ Quật Khởi Kế Hoạch",
mà cũng không xong.
- Tình
trạng bất công và không cân đối khiến Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo đều nói đến yêu
cầu chuyển hướng từ «lượng» sang «phẩm» và cải cách cơ chế cho linh động hơn.
Họ trù tính như vậy từ sau Đại hội 17 vào năm 2007 mà cũng thất bại.
RFI: Thưa anh
vì sao lại thất bại khi mà trong giai đoạn ấy kinh tế Trung Quốc đã qua mặt
nước Đức rồi nước Nhật?
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
Trung Quốc dự tính là không tìm tốc độ tăng trưởng cao cỡ 9-10% mà nhắm vào
phẩm chất của tăng trưởng để điều chỉnh những khác biệt chúng ta vừa nói.
Nhưng, nhiều đảng bộ địa phương lại vẫn muốn tăng trưởng bằng mọi giá và cản
trở chính sách này. Đã vậy, vụ khủng hoảng tài chính và suy trầm toàn cầu năm
2008-2009 khiến Bắc Kinh lo sợ rằng sản xuất sút giảm vì thị trường xuất cảng
suy sụp và nạn thất nghiệp gia tăng sẽ gây ra động loạn. Vì vậy, tháng 11 năm
2008, Bắc Kinh ào ạt tăng chi ngân sách và bơm thêm tín dụng qua hệ thống ngân
hàng để kích thích kinh tế.
- Kết
quả là kinh tế có tăng trưởng thật và vượt qua Nhật Bản vào năm 2010. Nhưng hệ
quả là một lượng tín dụng khổng lồ, tương đương với mấy ngàn tỷ đô la, được bơm
vào kinh tế, qua doanh nghiệp nhà nước và các cơ sở kinh doanh có quan hệ tốt
với viên chức địa phương, đã thổi lên bong bóng đầu cơ về địa ốc và thương
phẩm.
- Một
hậu quả khác là các địa phương thực hiện nhiều dự án có giá trị kinh tế rất
thấp mà vẫn được ngân sách tài trợ, miễn là tạo ra công ăn việc làm. Khi đã hết
ngân sách thì các chính quyền địa phương lập ra công ty đầu tư của địa phương
để vay tiền ngân hàng của nhà nước ở địa phương nên đã chất lên một núi nợ cực
lớn. Mà lớn chừng nào thì không ai biết, kể từ Ngân hàng Trung ương đến các cơ
quan quản lý của nhà nước. Nghĩa là Trung Quốc đang có một núi nợ vĩ đại có thể
sụp đổ bất cứ lúc nào với hậu quả còn nguy ngập hơn những gì đã thấy tại Nhật
Bản từ hơn hai chục năm trước, rồi Âu Châu và Hoa Kỳ như người ta đã thấy từ
bốn năm qua.
RFI: Dù sao thì Trung Quốc cũng
nắm trong tay một khoản dự trữ ngoại tệ trị giá hơn ba ngàn tỷ đô la mà một
phần ba là công khố phiếu của Mỹ, tức là họ đang là một chủ nợ của Hoa Kỳ. Thế
thì di sản kinh tế này là mạnh hay yếu?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: - Chúng
ta có nhiều cách nhìn và đánh giá cái sức mạnh biểu kiến này. Thứ nhất,
so với cái núi nợ vĩ đại có thể lên tới hơn phân nửa và thậm chí 75% của tổng
sản lượng, tức là gần năm ngàn tỷ đô la thì hơn ba ngàn tỷ dự trữ sẽ không đủ
chuộc nợ khi núi lở.
-
Thứ hai, trong luồng giao dịch tài chính với bên ngoài, tính đến tháng 6/2012
Trung Quốc đạt mức thặng dư tương đương với khoảng 1.750 tỷ đô la. Tức là kết
số của tài sản họ đầu tư ra ngoài khấu trừ phần đầu tư của ngoại quốc vào thị
trường của họ.
- Nhưng
khi đầu tư ra ngoài, như mua công khố phiếu để làm chủ nợ của Mỹ, thì họ được
một phân lời rất thấp trong khi phải trả một mức doanh lợi rất cao cho nguồn
đầu tư của nước ngoài vào thị trường Trung Quốc. Nhìn vào tương quan trao đổi
bất cân xứng ấy, Trung Quốc vẫn là một xứ lạc hậu chứ không mạnh như người ta
tưởng. Sau
cùng, cũng phải nói rằng trong hoàn cảnh hiện tại, với nguy cơ đình trệ toàn
cầu, kinh tế Trung Quốc khó đạt mức tăng trưởng trên 8% là số tối thiểu cần thiết
để tránh động loạn.
RFI: Để kết luận, anh cho rằng di sản kinh tế mà thế hệ lãnh đạo thứ năm sẽ
tiếp nhận sau này thật ra chẳng có gì là sáng sủa, có phải như vậy không?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: - Tôi
nghĩ rằng di sản đó không sáng sủa mà cực kỳ đen tối. Đấy không là một di sản
kinh tế mà là một di sản chính trị, một hệ thống chính trị không cho phép
chuyển hướng và cải cách dù lãnh đạo đã thấy ra vấn đề từ cả chục năm trước.
RFI:
Xin cảm ơn
chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Nhà sử học chuyên nghiên cứu về Trung Quốc nổi tiếng của Pháp, giáo sư François Godement từng ví guồng máy lãnh đạo của Bắc Kinh như một chiếc «hộp đen»: hiện tại, ngoài hai ông Tập Cận Bình và Lý Khắc Cương, chắc chắn là sẽ tham gia Ban thường vụ bộ chính trị, 5 hoặc 7 ghế khác trong tổ chức này chưa biết sẽ về tay ai. Theo những nguồn tin mới nhất có khả năng phe cải cách sẽ bị lép vế.
Vài
giờ trước khi Đại hội 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc khép lại, một số các nhà
quan sát của phương Tây cho rằng đại hội lần này diễn ra vào thời điểm nhu cầu
cải tổ cả về phương diện chính trị lẫn kinh tế đang trở nên cấp bách hơn bao
giờ hết. Không phải tình cờ mà tuần trước, Hoàn Cầu Thời Báo công bố một cuộc
thăm dò dư luận theo đó, 81,4 % người được hỏi mong muốn Bắc Kinh cải tổ guồng
máy chính trị, cho dù là có đến 69,7 % muốn sự thay đổi đó phải được thực hiện
từng bước.
ý bác Nghĩa là tình hình thế giới đã thay đổi, không còn thuận lợi cho TQ như xưa, nhưng các nhà lãnh đạo mới vẫn phải thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ như người trước để lại. Thật là 1 sự khó khăn.
Trả lờiXóachỉ sau có 10 năm mà GDP TQ tăng gấp 5 lần, quả thực là vĩ đại. từ 1450 tỷ USD lên 7400 tỷ USD với tốc độ tăng GDP 10%/năm. cái này khó hiểu quá." tháng 11 năm 2008, Bắc Kinh ào ạt tăng chi ngân sách và bơm thêm tín dụng qua hệ thống ngân hàng để kích thích kinh tế.
- Kết quả là kinh tế có tăng trưởng thật và vượt qua Nhật Bản vào năm 2010. Nhưng hệ quả là một lượng tín dụng khổng lồ, tương đương với mấy ngàn tỷ đô la, được bơm vào kinh tế,"cái núi nợ vĩ đại có thể lên tới hơn phân nửa và thậm chí 75% của tổng sản lượng, tức là gần năm ngàn tỷ đô la thì hơn ba ngàn tỷ dự trữ sẽ không đủ chuộc nợ khi núi lở. GDP = C + G + I + NX. thi G ,NX ở TQ rất cao do chi tiêu chính phủ, do đầu tư nước ngoài, vay nợ.
Doi luc, nhung con so co the lam chung ta nhuc dau va co the co nhung ket luan sai lech, thi du: cong nhan A dang lanh luong $US 100/thang, 10 nam sau, nho lam viec cham chi va gap co hoi tot,muc luong cua anh len toi $US1,000/thang, tuc la gap 10 lan luong cu.
Trả lờiXóaTrong khi do, anh B dang lam viec voi muc luong $US10,000/thang va cung 10 nam sau, luong cua B la $US25,000/thang, chi co 2.5 lan luong cu. Nhu vay, ta co the ket luan la anh A da thanh cong hon B khong? Chua chac, vi luong anh B da tang $US15,000 trong khi luong cua A chi tang co $US900 thoi.
Vi vay, trong moi truong kinh te, 1+1 doi khi khong phai la 2 ma co the la 2.5 hay 3 hay bat cu mot con so nao khac.
Ví dụ của Yến Chi thú vụ thật!
XóaGDP cua TQ tang truong manh nhu vay, phan lon la nho vao von FDI, thang du thuong mai -(Export - Import),tat ca nhung ngoai te nay deu nam trong tay CP, ho su dung no de tai dau vao chi tieu cua CP.
Trả lờiXóa