Thứ Tư, tháng 5 22, 2013

Cái Trớn Cải Cách Tại Nhật Bản

Vũ Hoàng & Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA Ngày 130522
"Diễn Đàn Kinh Tế"

Sự hung hăng của Bắc Kinh lại giúp Thủ tướng Abe có hy vọng thành công
000_Hkg8039481-305.jpg
* Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, trong một cuộc họp báo ở Tokyo tr­ước đây.
AFP PHOTO / Kazuhiro Nogi *



Đúng năm tháng sau khi trở lại làm Thủ tướng Nhật Bản lần thứ nhì, ông Shinzo Abe đạt một số thành tích kinh tế có thể lấy trớn cho một chương trình cải cách rộng lớn hơn trong thời gian tới. Việc cải cách ấy gồm những gì, Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu qua phần trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.

 

“Hiệu ứng Abe”  


Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, Tháng Chín năm 2007, Thủ tướng Shinzo Abe của Nhật Bản bất ngờ từ chức sau đúng một năm cầm quyền. Lý do chính thức là vì sức khoẻ mà lý do thực tế có thể là sự bất lực trước những ách tắc quá sâu rộng trong hệ thống kinh tế và chính trị của nước Nhật. Thế rồi, sáu tháng trước đây, ông Abe tái xuất hiện như lãnh tụ sáng giá của đảng Tự do Dân chủ với một đề nghị cải cách táo bạo và thắng cử vẻ vang tại Hạ viện Nhật để làm Thủ tướng từ hôm 26 Tháng 12 năm ngoái. Năm tháng sau, một số biện pháp của Nội các Abe đã đạt kết quả ngoạn mục nên chúng tôi xin đề nghị ông trình bày tiếp xem là ông Abe sẽ còn phải thực thi những dự án cải cách nào nữa, với hậu quả sẽ ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Trước hết về bối cảnh của "hiệu ứng Abe" hay chính sách kinh tế kiểu Abe mà quốc tế gọi là "Abenomics", ta nên nhớ lại vài điều u ám sau đây. Khi Nhật Bản bị bể bóng đầu tư cổ phiếu và địa ốc năm 1989 rồi kinh tế sa sút từ năm 1991 thì trong 22 năm, sản lượng thực tế của họ không tăng, kinh tế suy trầm bảy lần và 15 Thủ tướng đã thay nhau cầm quyền mà không có giải pháp thích ứng. Suốt 13 năm qua, lãi suất tại Nhật nằm ở số không, kinh tế giảm phát, hàng họ xuống giá mà bán không chạy, nay gánh công trái đã lên tới 240% Tổng sản lượng. Đã vậy, dân số Nhật bị lão hóa nên mỗi năm số người tham gia sản xuất giảm 1%....

Đấy là lúc ông Shinzo Abe đem lại tia hy vọng cho dân Nhật với một kế hoạch lớn lao trong tinh thần đầy vẻ Minh Trị Thiên Hoàng vào thế kỷ 19, là "nước giàu, quân mạnh". Nguyễn-Xuân Nghĩa

- Tình trạng sa sút ấy gây thất vọng cho người dân ở bên trong. Bên ngoài thì Nhật gặp mâu thuẫn nặng với Trung Quốc vì tranh chấp chủ quyền trên một quần đảo nhỏ là Senkaku mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư. Đấy là lúc ông Shinzo Abe đem lại tia hy vọng cho dân Nhật với một kế hoạch lớn lao trong tinh thần đầy vẻ Minh Trị Thiên Hoàng vào thế kỷ 19, là "nước giàu, quân mạnh". Tức là phải phục hồi kinh tế và xây dựng lại sức mạnh cho nước Nhật.

Vũ Hoàng: Thưa ông, mới nhậm chức chưa đầy nửa năm, ông Abe đã đạt thành tích kinh tế đáng kể và có một tỷ lệ hậu thuẫn rất cao là hơn 70%. Nhờ đâu mà được như vậy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chương trình kinh tế Abe được coi như cái nỏ liên châu bắn ra ba mũi tên, là thứ nhất tăng chi để nâng mức đầu tư trong các dự án xây dựng, thứ hai là bơm thêm tiền vào kinh tế để đẩy lui nạn giảm phát và đạt mức tăng trưởng cao hơn. Mũi tên thứ ba mới quan trọng, là cải tổ cơ chế kinh tế và cả xã hội để kéo xứ sở ra khỏi hai chục năm trì trệ và lụn bại.

- Thật ra, mũi tên thứ nhì là biện pháp tiền tệ liều lĩnh của Chính quyền Abe và tân Thống đốc Ngân hàng Trung ương mới chỉ được công bố hôm mùng bốn tháng trước. Cho nên, đáng chú ý ở đây là tinh thần phấn khởi của thị trường và của người dân. Nó đã có trớn từ cuối năm ngoái.

- Về những thành tích mới sau một giai đoạn u ám kéo dài thì sản lượng kinh tế của ba tháng đầu năm tăng 0,9%, là gấp ba quý trước, quy ra toàn năm thì tăng trưởng được 3,5%. Thứ hai, 60% lực đẩy của đà tăng trưởng ấy lại đến từ sức tiêu thụ, xưa nay vốn dĩ èo uột vì dân Nhật không dám chi tiêu nên kinh tế mới bị giảm phát. Thứ ba, vì lượng tiền lớn lao dự tính bơm ra để nhân đôi khối tiền tệ lưu hành và đạt chỉ tiêu lạm phát là 2%, nên đồng Yen sụt giá mạnh so với các ngoại tệ khác. Nó góp phần nâng cao số xuất khẩu và nhất là mức lời của doanh nghiệp Nhật. Nhờ vậy, chỉ số Nikkei của cổ phiếu Nhật đã tăng đến 70% so với Tháng 11 năm ngoái.




000_Hkg8178142-305.jpg
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (trái) bắt tay với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng trong một cuộc họp báo chung được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 16 tháng 1 năm 2013. AFP photo.   


Vũ Hoàng: Một cách đơn giản mà dễ hiểu thì ông giải thích thế nào về những thành tích này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Nói nôm na là khi kinh tế bị giảm phát và hàng họ mất giá đều cỡ 0,2% mỗi năm trong 13 năm qua, Chính phủ Nhật báo trước là sẽ ào ạt bơm tiền, có thể bằng 220 tỷ đô la mỗi tháng, để đạt cho được mức lạm phát là 2% một năm. Không chỉ dọa người dân là phải tiêu tiền trước khi có lạm phát, chính quyền còn đòi đánh thuế tiền tiết kiệm của tư nhân và doanh nghiệp, mục đích là khuyến khích đầu tư và tiêu thụ hầu kích hoạt nền kinh tế đình đọng.

- Động lượng thứ hai là bơm tiền như vậy thì sẽ làm đồng Yen mất giá, và thực tế thì đã sụt 30% so với Mỹ kim và 37% so với đồng Euro. Đó là chủ trương "Enyasu", tức là "đồngYen rẻ". Theo nhật báo chuyên đề kinh doanh của Nhật là tờ Nihon Keizai thì mỗi khi đồng Yen sụt một đơn vị so với đồng đô la, giả dụ từ 99 đồng thì phải trăm đồng mới đổi được một đô la Mỹ, thì doanh lợi của 30 công ty xuất khẩu lớn nhất của Nhật tăng được hai tỷ bảy đô la nhờ xuất khẩu. Nghĩa là nhiều doanh nghiệp Nhật vừa thắng lớn trong mấy tháng qua và thổi lên niềm hy vọng.

 

Vượt thành trì bảo thủ


Vũ Hoàng: Bây giờ, ta nhìn qua "mũi tên thứ ba" là dự tính cải cách rộng lớn mà ông Abe muốn tiến hành. Thưa ông, dự tính ấy là những gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Kinh tế và xã hội Nhật bị trì trệ trong sự xơ cứng của hệ thống chính trị, bộ máy hành chính công quyền và các doanh nghiệp, trước lực cản của các nhóm lợi ích. Đấy là một nét văn hóa đặc thù của Nhật.

- Sau khi đạt một số thành tích nhờ đó hy vọng thắng cử tại Thượng viện vào Tháng Bảy tới để có đa số rất mạnh ở cả hai viện trên dưới, Chính quyền Abe mong có đủ hậu thuẫn để vượt sức cản của nhiều thành trì bảo thủ, đó là nội dung cải cách sắp tới. Sau đây là một vài hướng chính.

- Thứ nhất là cải cách nông nghiệp và điền địa. Nông gia Nhật là thế lực chính trị xưa nay vẫn ủng hộ đảng Tự do Dân chủ để duy trì chế độ bảo hộ mậu dịch, hạn chế nhập khẩu nông sản và chi phối cả quyền sử dụng đất canh tác. Với hậu thuẫn của ngành công nghiệp, ông Abe trù tính sửa đổi tình trạng này nên mới chủ trương tham gia vào Hiệp định Đối tác Kinh tế và Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương, mà ta hay gọi tắt là TPP. Nếu thành hình thì đây là một bước đột phá rất lớn và tăng cường vai trò quốc tế của Nhật trong vùng Thái Bình Dương, đối diện với một Trung Quốc vẫn đứng ngoài vì vị trí chủ đạo của khu vực quốc doanh.

Khi cải cách thì thể nào nhà nước cũng đem lại mối lợi cho thành phần này mà gây thiệt hại cho thành phần khác. Vì vậy, phải nhìn chuyện lợi và hại của cải cách trên tổng thể. Nguyễn-Xuân Nghĩa

- Thứ hai là cải tổ chế độ lao động để nâng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì dân số sa sút, Nhật chỉ có tương lai nhờ cải tiến năng suất nhưng doanh nghiệp bị kẹt vì sức cản của công đoàn nên không thể sa thải nhân viên toàn thời. Nếp văn hóa Nhật là bảo đảm việc làm toàn thời và suốt đời cho một lực lượng lao động còm cõi là một điều phải sửa đổi, mà không dễ. Thủ tướng Abe phải giải phóng thị trường lao động thì Nhật mới có được năng suất ngang bằng với các nền kinh tế mạnh.

- Thứ ba là hệ thống bán lẻ của Nhật, xưa nay vẫn là loại cửa hàng nhỏ của các hộ gia đình với một chu trình phân phối và tiếp liệu phức tạp và kém hiệu năng và chỉ tồn tại là nhờ trợ cấp, biện pháp thuế khóa lẫn luật lệ quy hoạch có mục tiêu bảo vệ và loại bỏ cạnh tranh. Hệ thống ấy cũng đánh sụt năng suất trong ngành bán lẻ. Doanh nghiệp nào muốn vào thị trường đó ở các địa phương phải được hai phần ba cư dân sở tại đồng ý nên kinh tế địa phương khó phát triển.

- Ngoài ra, còn nhiều lĩnh vực khác cũng phải được tái cơ cấu, như cải tổ quyền sử dụng đất, quy hoạch về xây cất cho yêu cầu gia cư, hoặc hệ thống dịch vụ y tế quá rườm rà, hay cải tổ thuế vụ và giải tỏa hành chính, v.v.... Nói chung, đây là loại vấn đề lưu cữu từ mấy chục năm mà không giải quyết nổi, chứ không là sáng kiến riêng của ông Abe.

Vũ Hoàng: Mới chỉ phác họa vài nét thì mình đã thấy đủ loại trở ngại về kinh tế, xã hội, chính trị và cả văn hóa. Thưa ông, nếu vậy thì Chính quyền Nhật có hy vọng cải cách được không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin được nêu ra một quy tắc chung ở mọi nơi và vào mọi hoàn cảnh. Khi cải cách thì thể nào nhà nước cũng đem lại mối lợi cho thành phần này mà gây thiệt hại cho thành phần khác. Vì vậy, phải nhìn chuyện lợi và hại của cải cách trên tổng thể, cho cả quốc gia và xã hội chứ không thể chỉ lo cho thành phần thân hữu của mình.

- Rút kinh nghiệm của một vị tiền nhiệm có nỗ lực cải cách là Thủ tướng Junichiro Koizumi từ 2001 đến 2006, tôi thiển nghĩ rằng ông Abe có thể tiến từng bước, mỗi bước lại tranh thủ được hậu thuẫn của một số thành phần có lợi nhờ việc cải cách, để cuối cùng thì đem lại kết quả chung là mối lợi cho cả quốc gia.

- Yếu tố hy vọng thứ hai là thắng lợi kinh tế ở bên ngoài cũng huy động được sự ủng hộ chính trị ở bên trong. Ta thấy ra điều ấy khi Thủ tướng Abe vượt qua mâu thuẫn với Liên bang Nga về chủ quyền trên các quần đảo Kurils ở mạn Bắc để tìm cách hợp tác với Nga về năng lượng. Chính quyền Abe còn chủ động mở ra kế hoạch yểm trợ Hiệp hội ASEAN vào đầu tháng này để vừa tranh thủ quyền lợi vừa tăng cường vai trò quốc tế của  Nhật trước sự bành trướng của Trung Quốc. Có lẽ chính thái độ hung hăng của Bắc Kinh lại mặc nhiên củng cố tư thế của Thủ tướng Nhật và giúp ông có hy vọng thành công.

Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối thưa ông, kết quả của nỗ lực cải cách này sẽ là những gì cho các xứ khác, kể cả Việt Nam?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Như trong mọi chuyện ở đời, ta đều có thể thấy ra hai mặt lợi và hại.

- Ngay trước mắt là trong một vài năm, đồng Yen Nhật có thể còn sụt giá nữa nếu so với đô la, và đấy một là yếu tố bất ổn nữa. Rồi sức cạnh tranh của Nhật nhờ hàng bán rẻ có thể gây sức ép mậu dịch cho các nước Á Châu như Nam Hàn, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam lẫn Trung Quốc. Thứ nữa, tư bản Nhật sẽ chảy rất mạnh ra ngoài dưới dạng đầu tư và tín dụng. Nếu luồng tư bản đó có yểm trợ sản xuất thì cũng dễ thổi lên bong bóng. Mà nếu thoái trào vì khó khăn ở bên trong xứ Nhật thì lại dẫn tới khủng hoảng như các nước Đông Á đã từng bị vào năm 1997.

- Vì vậy, thuần về kinh tế thì sự xoay chuyển của Nhật Bản sẽ là bài toán quản lý vĩ mô khác cho Việt Nam do những bất ổn trước mặt. Nhưng ngược lại, nếu Chính quyền Nhật thành công và hiệp định Xuyên Thái Bình Dương thành hình vào cuối năm tới thì đây là cơ hội tốt đẹp hơn cho Việt Nam, kể cả về kinh tế lẫn chiến lược, nếu Việt Nam cũng kịp thời cải cách.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.

_________

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này

6 nhận xét:

  1. bác chưa đề cập đến chuyện nước Nhật có 50% lực lượng lao động nữa k tham gia vào nền kinh tế. Đó là phụ nữ. Nếu họ tham gia vào nền kinh tế: đi làm, sản xuất... thì tình trạng già hóa của Nhật sẽ mất đi, họ sẽ sản xuất nhiều hơn, thu nhập nhiều hơn, tất nhiên là chi tiêu nhiều hơn. Đây là nét văn hóa rất riêng của Nhật mà họ k chịu cải tiến.
    Khi Chính Phủ Nhật tăng chi tiêu sẽ làm tăng nợ, dẫn đến làm tăng lãi suất trái phiếu. Làm lãi suất cơ bản tăng
    Khi họ làm giảm giá trị đồng tiền thì sẽ có nhiều tài sản gắn liền với tiền bị giảm giá (trái phiếu, tiết kiệm...)mà những tài sản này nếu được đem thế chấp ở ngân hàng sẽ bị giảm giá. Khi bị giảm giá thì tài sản sẽ bị bán tháo đồng loạt. sẽ lại xẩy ra 1 cuộc khủng hoảng nữa ?

    Trả lờiXóa
  2. hanoi,
    Tu khi Nhat pha gia dong Yen, Nikkei Index da gia tang tu 8,000 (6/12) len 16,000(5/13). Sau ngay sut gia hom qua Index hom nay la 14,600. Ai la nguoi duoc thua huong su gia tang tai san nay? Xin thua, da so la nhung nguoi dan Nhat da dau tu vao co phieu cua cac cong ty Nhat Ban.

    Chuyen gi se xay ra sau nay thi chung ta hay cho xem.

    Trả lờiXóa
  3. Để có thể tăng trưởng về kinh tế, phải cần sử dụng nhiều hơn nữa về tài nguyên thiên nhiên, năng lượng. Tìa nguyên là cái mà Nhật k có hoặc rất ít. Tất yếu họ sẽ phải nhập khẩu trên TG. Tất yếu sẽ làm cho giá nguyên vật liệu SX tăng cao, khi đó, giá sản phẩm sẽ tăng. Giá tăng thì sản phẩm sẽ bán được ít. Nhưng SX trên quy mô công nghiệp thì phải sản xuất số lương lớn,tự động hóa cao nên cần tín dụng (nợ). Nợ sẽ được các Ngân hàng tạo ra thông qua các giấy tờ có giá trị. Tín dụng gia tăng làm lãi suất tăng. Mà lãi suất tăng thì nền kinh tế phải tăng trưởng cao hơn để đủ bù đắp cho nợ & lãi suất. cái vòng luẩn quẩn của tăng trưởng.
    Nhưng cũng thừa nhận rằng các sản phẩm do Nhật tạo ra cũng thuộc loại tốt nhất trên TG, giá k hề thấp vì họ dùng công nghệ cao & vật liệu đắt tiền. sản lượng bán ra phải đủ lớn mới giúp họ tồn tại được.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cach suy nghi cua ban chi dung tren ly thuyet, va chi ap dung cho nhung nuoc dang phat trien. Khong chi tai Nhat, cac dai cong ty Nhat con co nhieu co xuong tai nhieu noi tren the gioi: Trung Cong, Thailand, Au Chau, Mexico ... va ngay ca tai My nua nen tai nguyen thien nhien va nang luong khong phai la van de chinh. Them vao do, Nhat la chu no cua nhieu quoc gia tren the gioi ( bao gom nuoc My) chu khong phai con no nen lai suat khong la noi uu tu cua ho.

      Xóa
  4. với cổ phiếu, khi nó tăng giá, sẽ rất nhiều người có lợi. Tài sản gia tăng, tất yếu họ sẽ được vay thêm tiền để đầu tư do các cổ phiếu được cầm cố.Có thêm tiền Họ lại lấy số tiền đó để đầu tư tiếp.Có thể nó sẽ làm cho cổ phiếu lại tăng tiếp. Đến lúc này, số tiền vay nợ là rất nhiều, cùng với lãi suất của các khoản vay. Nếu chẳng may, kinh tế k tăng trưởng, có 1 cú sốc nhỏ làm cho cổ phiếu bị giảm giá. Rủi ro gia tăng, số tài sản họ cầm cố bị đồng loạt giảm giá trị, các ngân hàng sẽ phải tự động bán ra, làm cho cổ phiếu tiếp tục giảm giá. các khoản nợ & lãi còn rất cao, khi nền kinh tế bị suy trầm thì người dân lấy đâu ra tiền để trả cho 1 núi nợ do họ đã tạo ra trước đây. Những số liệu cụ thể như chỉ số Index phải đi vào từng cá nhân cụ thể mới thấy cái lợi mà họ có được trước mắt.
    Tóm lại, sự tăng trưởng chỉ gây ra sự gia tăng về các khoản nợ mà k bao giờ có thể trả hết được vì họ k có đủ tiền mặt nên họ mới phải vay ngân hàng.

    Trả lờiXóa
  5. các khoản nợ thì tích tụ lại dần, tăng lên là Nguyên NHÂN, còn cái DUYÊN là khi 1 mắt xích nào đó, sụt giảm, làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, khi đó vỡ nợ xảy ra, dẫn đến khủng hoảng. Nó là mối quan hệ về Nhân-quả hay Nhân duyên như Bác Nghĩa thường dùng. Có điều nó phải tích lũy dần theo thời gian, rồi 1 lúc nào đó sẽ bùng phát. Có lẽ chỉ có các chuyên gia, học giả, những người theo dõi chuyên sâu về từng sự kiện mới có thể có đây đủ dữ liệu và dẫn chứng để chứng minh được những điều này. Nhât là có thể tìm thấy trong các quyển sách best selller về kinh tế của những người nhận giải Nobel về kinh tế.

    Trả lờiXóa