Dưỡng Chân - Việt Báo Xuân Giáp Ngọ 2014
Công
Chúa, Bồ Tát hay Con Hát Bất Hạnh?
Cuốn biên khảo của Olga Dror về Liễu Hạnh
Dân ta thường có một câu
nhắc nhở hai ngày giỗ quan trọng nhất năm: "Tháng Tám giỗ Cha, Tháng Ba giỗ
Mẹ".
Tháng Tám âm lịch vào
ngày 16 là giỗ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, nhân vật có thật của dân tộc vào
đời Trần (1225-14000. Sinh năm 1228 và mất năm 1300, ngài chỉ huy ba trận chiến
đánh bại quân Mông Cổ của nhà Nguyên bên Tầu vào các năm 1258, 1285 và 1287, được
dân ta dựng tượng thờ và cúng bái hàng năm.
Còn mùng Ba Tháng Ba âm
lịch là ngày giỗ Công chúa Liễu Hạnh, được nhiều người tôn vinh là Thánh Mẫu, và
trải qua mấy trăm năm, được các triều Lê và Nguyễn sắc phong là Mẫu Nghi Thiên
Hạ - mẹ của muôn dân.
Nếu Hương Đạo Vương là
nhân vật có thật duy nhất được dân ta tôn là Thánh thì Công chúa Liễu Hạnh còn
siêu phàm hơn vậy.
Liễu Hạnh là phụ nữ duy
nhất trong bốn thần linh được dân ta đưa lên hàng "Tứ Bất Tử", giữa ba
nhân vật thần thoại kia là Tản Viên Sơn Thần, Thánh Gióng và Chử Đồng Tử. Trong
số ba vị nữ lưu được nhiều người cúng bái như Mẹ, thì Thánh Mẫu Liễu Hạnh đứng đầu,
trước Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn. Trong thế giới của người hầu đồng, với Tam
Phủ hay Tứ Phủ ở từng nơi, Liễu Hạnh cũng ở trên cùng, cai quản Thiên Phủ, trước
Địa Phủ, Thoại Phủ và Nhạc Phủ....
Vậy mà chúng ta biết rất
ít về Liễu Hạnh. Bà là người có thật hay chăng? Là Công chúa, Thánh Mẫu, Bồ Tát
hay con hát, chúng ta cũng chẳng hay....
May là qua thế kỷ 20 này, một nữ học giả gốc Nga, giáo sư tại Hoa Kỳ, lại say mê văn hóa Việt Nam và tận tụy tìm hiểu về Liễu Hạnh. Bà Olga Dror đã đi nhiều nơi, tham khảo mọi tài liệu sách báo và vẽ lại chân dung Liễu Hạnh qua hai cuốn biên khảo mà người Việt chúng ta nên biết....
Bài này khởi đi từ đó để
tìm về Liễu Hạnh.
***
Olga
Dror
Bà Olga Dror sinh tại
nước Nga vào thời Liên bang Xô viết. Sau năm năm theo học về Việt Nam - nên gọi
là Việt học chăng? - tại Leningrad State University, năm 1988 bà có đến Việt
Nam làm thông dịch viên cho một phái đoàn Xô viết khi Liên Xô sắp tan rã. Sau
khi Liên Xô sụp đổ, bà Olga Dror qua Mỹ, học hỏi tiếp về Việt Nam theo lối chính
quy nền nếp của các Đại học Hoa Kỳ. Tốt nghiệp Tiến sĩ, bà giảng dạy về lịch sử
và văn hóa Á Châu tại nhiều đại học Mỹ, nhưng vẫn chuyên chú về Việt Nam, bên
ngoài và hiển nhiên trái ngược với phạm vi hay quy cách thời Xô viết. Có thể là
do thiện cảm của một người đã tìm hiểu về dân tộc này với lăng kính mở rộng.
Nhờ vậy, bà đã cống hiến hai tác phẩm mà các nhà nghiên cứu về Việt học nên chú ý.
Cuốn thứ nhất, "Opusculum de Sectis apud Sinenses et
Tunkeneses", là bút ký của một linh mục người Ý, cha Adirano di Santa
Thecla thuộc dòng tu Augustinian Chân đất. Tài liệu có thể đã bị lãng quên sau
khi xuất hiện vào năm 1750 nếu không lọt vào trí tò mò của Olga Dror từ năm
2000, khi bà đang nghiên cứu về Liễu Hạnh.
Vì Liễu Hạnh, bà Olga
Dror đọc kỹ tiểu luận bằng tiếng Latinh của nhà truyền giáo thời xưa, rồi phiên
dịch và bổ chú. Nhờ đó, ta có cuốn "A
Small Treatise on the Sects among the Chinese and Tonkinese". Đây là một
tiểu luận mấy trăm trang về các giáo phái của người Tầu và người Việt trên đất Bắc
Hà vào Thế kỷ 18 – được Đại học Cornell xuất bản năm 2002.
Ngoài một đoạn ly kỳ về
Liễu Hạnh, cuốn sách còn cung cấp nhiều thông tin bất ngờ về tín ngưỡng của những
người sinh sống tại Bắc Hà vào cuối thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Đấy là lời tường
thuật khách quan - và ân cần - của một nhà truyền giáo muốn tìm hiểu thế giới tâm
linh của người Việt để thi hành mục vụ, và cố gắng để không trái với huấn chỉ đáng
dị nghị của Toà Thánh Vatican. Nhờ sự dẫn giải của Olga Dror, người đọc không
chỉ biết thêm về sinh hoạt thờ cúng của dân ta tại miền Bắc mà còn hiểu ra bài
toán của Giáo hội Công giáo.
Hoàn tất công trình biên
khảo và phiên dịch này rồi, Olga Dror mới trở lại với Liễu Hạnh.
Bổ xung cho loạt tiểu
luận từ năm 2002 về Liễu Hạnh qua cái nhìn của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, vị học giả
này tìm hiểu tiếp về một nhân vật hư hư thực thực nhưng có ảnh hưởng toả rộng
trong tâm tư của người Việt. Kết quả là cuốn sách thứ nhì.
Được Đại học Hawaii xuất
bản năm 2007, cuốn "Cult, Culture,
and Authority – Princess Liễu Hạnh in Vietnamese History" của Olga
Dror đã theo chân Liễu Hạnh qua các thời kỳ và địa phương để nói về quan niệm
thờ cúng, văn hóa và quyền lực của người Việt, từ ngàn xưa cho đến ngày nay....
Những ai muốn nghiên cứu về Việt học đều nên đọc cuốn này. Nếu muốn quảng bá Việt
học thì nên xin tác giả cho phép phiên dịch, với rất nhiều bổ chú, để mình nhận
ra mình.
Thuần về văn học sử, cuốn
sách có giá trị ở việc thu thập và trình bày lại Liễu Hạnh qua cách tường thuật
có gói ghém cả tâm tư của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm vào Thế kỷ 18 (Vân Cát Thần Nữ truyện, trong cuốn Truyền kỳ Tân phả bằng chữ Hán), của Hy
Văn Nguyễn Công Trứ vào Thế kỷ 19 (Liễu Hạnh
Công Chúa Diễm Âm bằng chữ Nôm) và Kiều Oánh Mậu vào đầu Thế kỷ 20 (Tiên Phả Dịch Lục bằng chữ Nôm).
Những truyện kể từ Hán
đến Nôm đã là chuyện ly kỳ. Nhưng truyện kể từ cuối thời Trịnh Nguyễn của Đoàn
Thị Điểm qua thời Nguyễn Sơ của Nguyễn Công Trứ, khi quân Pháp sắp vào làm chủ
đất nước, qua thời thực dân của Kiều Oánh Mậu, hình tượng Liễu Hạnh phản ảnh tâm
tư và hoài bão của thành phần ưu tú nước ta.
Bước sang lãnh vực tín
ngưỡng, truyện Liễu Hạnh của Olga Dror còn cho thấy nhiều tranh giành ảnh hưởng
giữa Đạo giáo với Phật giáo, kể cả các màn đấu phép giữa Công chúa Liễu Hạnh và
Nội Đạo Tràng, một tông phái rất lạ xưng
danh Phật giáo, hay ở trong các sinh hoạt Đạo giáo được cuốn Hội Chân biên ghi lại.... Được các triều
đình theo Khổng Nho ban sắc phong là Mẫu Nghi, Công chúa Liễu Hạnh cũng là Tiên
là Phật của những người theo Lão theo Phật. Và là Thánh Mẫu tối cao của những
người lên đồng.
Hấp dẫn hơn thế, Liễu Hạnh
cũng hiện diện trong các tranh chấp lịch sử dưới triều Lê, triều Mạc, rồi suốt
thời Nội chiến phân tranh giữa hai họ Trịnh-Nguyễn. Dường như phe nào cũng có một
Liễu Hạnh của mình, hoặc dùng biểu tượng Liễu Hạnh để gây bè kết phái trong sự
tôn sùng của dân gian. Thời Pháp thuộc, tín ngưỡng của dân gian cũng được tận tình
khai thác và chế độ thực dân cùng các phong trào kháng Pháp đều nói đến phát
huy và bảo tồn bản sắc văn hóa nên cũng huy động và đề cao Liễu Hạnh.
Kinh nghiệm của Olga
Dror dưới chế độ cộng sản tại Liên Xô còn giúp bà giải thích những quốc sách về
tín ngưỡng và tôn giáo dưới các chế độ độc tôn, từ thời quân chủ chuyên chế qua
thời thực dân, xã hội chủ nghĩa cho đến ngày nay. Qua chân dung Liễu Hạnh, may
ra, chúng ta thấy được thân phận người dân trong thời tao loạn.....
Với sự hiểu biết trung bình – nghĩa là khá thấp mà không biết – về nền văn hóa cổ của nước nhà, người viết xin tìm lại Liễu Hạnh từ những biên khảo của Olga Dror rồi từ nhiều tác giả khác....
Liễu Hạnh Đa Diện
Bên ngoài thế giới khoa
học, và nói về thế giới thần bí của tín ngưỡng, người ta có nhiều chân dung khác
nhau của Liễu Hạnh. Nhưng chúng ta cũng có thể kết hợp làm một, như về một nhân
vật duy nhất, qua cách giải thích là nhờ hóa thân, nhờ chuyện đầu thai. Vì vậy,
thời nào và nơi nào cũng có thể có "Liễu Hạnh của mình", được trình bày
trong các truyền thuyết....
Trước khi đi vào truyền
thuyết, chuyện đầu tiên là sự tai hại của tấm "lịch tròn" theo lối viết
sử biên niên tại Việt Nam hay Trung Quốc. Với người xưa, thời gian vận chuyển
theo hình tròn. Mọi chuyện tái diễn trong một vòng hoa giáp 60 năm và vào một
niên hiệu nào đó của ông vua đang cai trị, mà niên hiệu thì có đổi thay nếu có
chuyện đổi ngôi hay ông vua thấy hứng. Thí dụ như một biến cố chỉ được ghi lại
là vào một năm Quý Sửu, chi tiết hơn thì có niên hiệu của ông vua đời Lê, thời
Hồng Đức, hay Thiên Hựu hay Cảnh Trị thì còn tùy! Còn không gian là tên của nhiều
địa danh, từ ấp, xã, huyện phủ lên đến tỉnh, thì cũng đổi thay theo từng triều đại.
Nhờ sự mông lung mơ hồ đó,
Liễu Hạnh có thể xuất hiện ở nhiều nơi và thi thố thần thông vào nhiều thời.
Theo một truyền thuyết
còn giữ tại Nam Định như văn bản chính thức, lần đầu tiên Liễu Hạnh xuất hiện là
vào đời Hậu Lê, tại trấn Sơn Nam, nay là tỉnh Nam Định. Thời điểm là mùng sáu
Tháng Ba âm lịch của năm Quý Sửu. Dùng tấm lịch thẳng, ta đoán ra năm 1433, lùi
lại vào năm Quý Sửu 1493 thì sai bét. Khởi đầu, có cô con gái của Ngọc Hoàng Thượng
Đế là Công chúa Hồng Liên đã giáng trần thành nàng Phạm Tiên Nga trong một gia đình
họ Phạm.
Sống đời gương mẫu, nàng
lo tròn chữ hiếu với hai thân phụ mẫu. Sau khi cha mẹ tạ thế thì nàng bắt đầu tế
độ chúng sinh ở tuổi 35 bằng hoạt động từ thiện như đắp đê, xây cầu, lập chùa và
bằng những lời khuyên răn về chuyện nhân đức. Phạm Tiên Nga hóa thân về trời ở
tuổi 40, vào đêm mùng hai rạng mùng ba Tháng Ba năm Quý Tỵ, ứng vào năm 1473, đời
Hồng Đức, là đời Lê Thánh Tông. Dân chúng địa phương lập đền thờ ở nhiều nơi và
lễ hội tưởng nhớ Liễu Hạnh có thể khởi sự từ đó, ít ra theo cách diễn giải của
giới chức địa phương.
Một thuyết khác, phổ biến
hơn mà cũng có thể xuất phát từ cách trình bày của Đoàn Thị Điểm, Công chúa Liễu
Hạnh là hóa thân của nàng Phạm Tiên Nga. Vì ở trên thiên đình nàng vẫn thương
nhớ mẹ cha dưới trần, nên lại tái sinh vào năm Đinh Tỵ đời Thiên Hựu, tại thôn
Vân Cát, xã An Thái, huyện Thiên Bản, cách chốn cũ có bảy cây số ngàn. Theo tờ
lịch thẳng thì đấy là năm 1557. Lần này thì nàng giáng thế trong một gia đình họ
Trần hay họ Lê, và kết duyên với một người tử tế có học, sinh được một con
trai, rồi thăng vào tuổi đôi mươi, năm 1577, đời Lê Gia Thái. Lăng mộ và đền thờ
được lập tại đó và lễ hội Phủ Dầy là một sinh hoạt trọng đại cho đến sau này.
Thời điểm 1557 rất đáng
chú ý vì chỉ là một năm trước khi Nguyễn Hoàng xin vào Thuận Hoá. Thời Trịnh-Nguyễn
phân tranh bắt đầu từ đấy, với Đàng Trong mở ra hướng khác, về Đông Nam Á.
Truyền thuyết thứ ba, theo
dòng thời gian trước sau, Công chúa Liễu Hạnh lại tái sinh lần nữa vào ngày 10
Tháng 10 năm Canh Dần, ứng vào năm 1650. Lần này cũng vì thương nhớ chồng con thuộc
kiếp trước, bà giáng sinh tại một nơi xa hơn ở phía Nam, làng Tây Mỗ, xã Hà Thái,
huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá và tái hợp với người chồng tử tế và có học của
kiếp trước nay đầu thai trong một gia đình họ Mai. Sinh được một con thì bà lại
thăng, ở tuổi 18, vào ngày ông Táo về trời năm Mậu Thân 1668. Dân chúng lập đền
thờ tại phủ Sòng Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
Xuyên qua ba truyền
thuyết cũ, trước khi lại có truyện mới, thì Liễu Hạnh không phải người trần, mà
là con gái Ngọc Hoàng Thượng Đế. Vì lỡ tay làm rơi chén ngọc mà bị giáng xuống
thế gian nên mới có tên như Tiên Nga, Giáng Tiên, v.v... Dưới trần thế, nàng tiên
xinh đẹp là người giỏi văn thơ và âm nhạc, sống một đời gương mẫu với gia đình
và ban phát phúc lành cho dân gian. Nàng cũng là người đi nhiều nên thấy xuất
hiện ở khắp mọi nơi, vào nhiều thời, có khi còn thơ phú với Trạng Bùng Phùng Khắc
Khoan và bằng hữu, như bà Đoàn Thị Điểm kể lại.
Con người tài đức ấy được
dân gian tin tưởng nên nhiều nơi xây miếu đền để thờ phượng một đấng linh thiêng.
Thờ phụng vì đấy là người thiêng, mà cúng bái xin xỏ gì thì cũng toại nguyện nên
mới là người linh. Triều đình nghe danh nên sắc phong làm Thượng đẳng Phúc thần
rồi Mẫu Nghi Thiên Hạ và Công chúa Liễu Hạnh mới lên tới ngôi vị thần linh.
Trước một hình tượng
linh thiêng và đa diện như vậy trong dân gian, danh nho hay nữ sĩ cũng phải cúi
đầu, nhưng mỗi người một cách vì một mục tiêu.
Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm viết
về Liễu Hạnh bằng chữ Hán cho thiểu số ưu tú được đọc, không để đòi nam nữ bình
quyền như người sau diễn giải. Bà muốn cho thấy phụ nữ còn trên đàn ông rất xa
mà không chỉ về thơ phú ngâm vịnh. Hồng Hà nữ sĩ mở đường cho Hồ Xuân Hương....
Còn danh nho Nguyễn Công
Trứ viết về Liễu Hạnh khi nước nhà sắp lâm nguy. Ông viết bằng chữ Nôm cho quần
chúng nghe và lưu truyền, rằng sông núi nước Nam có thần linh ngự trị. Đến Kiều
Oánh Mậu vào thế kỷ 20, khi nước Nam đã mất chủ quyền, ông cũng viết bằng chữ Nôm
cho dân gian dễ lưu truyền. Ông viết về một bản sắc riêng của dân tộc, khi việc
khai hoá của thực dân là trò chơi hai mặt.
Với Liễu Hạnh, thế giới song ngữ Hán Nôm, của thiểu số ưu tú và đa số dân giả, đã hợp chung làm một. Người thì cúng bái cầu khẩn, người thì ca tụng bằng thơ văn và triều đình ở trên bèn vơ vào một mối, với sắc phong và cờ biểu tưng bừng.
Nhưng nào chỉ có vậy!
Liễu
Hạnh Hồng Nhan
Xuyên qua công trình sưu
tập và diễn giải của Olga Dror, với những trích dẫn tường tận về các tác giả khác,
chúng ta thấp thoáng thấy một chân dung độc đáo, mà rất "người", của
Liễu Hạnh.
Vì sử gia Tạ Chí Đại
Trường nói đến Liễu Hạnh như một vị thần dữ, lại có hơi hướng của sông nước, nên
ta chú ý đến vài khía cạnh ít ngờ. Vị Thánh Mẫu này đôi khi ra tay trừng phạt nên
mới có tiếng là thần dữ. Và bà cũng nổi trôi theo mệnh nước mà tiến dần vào Nam,
có khi được Việt hoá từ một hình tượng thần linh Chiêm Thành. Chúng ta tiếp nhận
văn hóa và cả nghệ thuật lẫn tín ngưỡng Chàm từ đời Lý mà đã quên rồi. Cho nên
bà Po Nagar của dân Chàm có khi nhập Việt
tịch mà thành Thiên Y A Na rồi hóa thân ra Hậu Thổ Phu Nhân và trở thành Thánh
Mẫu Liễu Hạnh.
Chi tiết khác được nhà
truyền giáo di Santa Thecla ghi lại trong tập Opusculum do Olga Dror phiên dịch, là Liễu Hạnh được dân gian sùng
bái rất rộng, nhưng chỉ là người thường.
Mà khá bất thường.
Vì
"Nàng hát, theo lời kể lại là một cách thô tục và vô xỉ (disgracefully and impudently) nên bị người
ta ghen tức giết chết và vứt xác xuống sông!" Chữ Latinh của di Santa
Thecla là impudica được Olga Dror dịch
ra impudently và diễn giải là shamelessly, nên có thể hiểu là "không
biết xấu hổ".
Nhưng biết đâu chừng, đấy
là cái tội dâm đãng? Một kỹ nữ dâm đãng bị ai đó giết bên bờ nước mà được lập đền
thờ và đời sau tôn là Công chúa, là Giáng tiên và lên ngôi Thánh Mẫu? Thuyết này
không có gì là hoang đường, vì sau nhà truyền giáo di Santa Theckla 30 năm, một nhà
ngoại giao Pháp là François-Louis Lebreton cũng xác nhận năm 1782, rằng theo lời
kể của nhiều người Việt, "Liễu Hạnh là một ả giang hồ, bán dâm - prostituée - được thờ cúng ở nhiều nơi....."
Liễu Hạnh không chỉ đa
diện mà còn có thể là hồng nhan đa truân!
Đầu Xuân xin hãy hỷ xả
mà theo dõi chuyện này, vì trước tiên chúng ta trở lại với một phong tục xưa.
Từ
tâm là một nét đặc thù rất Việt. Dân ta có thể vì lòng thương cảm với người chẳng
may chết oan mà lập đền thờ. Nổi tiếng nhất và dẫn đầu chính là Hai Bà Trưng, được
dân thương là chết trận mà lập đền, trước khi được đời sau tôn là anh hùng dân
tộc.
Và đi vào thế giới tâm
linh thì ta mới có chuyện thiêng, rồi linh. Thiêng là khi thấy người chết hiển
thị được phép siêu hình, có lành có dữ. Linh là khi pháp thuật đó lại đáp ứng lời
cầu xin của người lễ bái. Xin gì được nấy thì đấy là linh.
Chỉ vì lòng nhân, không
thiếu gì ngôi làng đã chôn kẻ hành khất thuộc diện "sinh vô gia cư, tử vô địa táng". Khi thấy mả có mối đùn hay điềm
lạ thì dân làng lập miếu thờ hồn thiêng, nếu lại có sự linh ứng được đồn đãi thì
kẻ ăn mày đó có thể là thành hoàng của ngôi làng. Sau này còn được sắc vua ban.
Chẳng nói đến chuyện khất
cái thì hãy nhớ tới Sầm Nghi Đống! Mấy ai phục kẻ xâm lăng nhưng vẫn thương người
chết trận ở phương xa mà lập miếu thờ. Ngõ Sầm công và bài thơ Hồ Xuân Hương vẫn
còn đó....
Trở lại với Liễu Hạnh,
xin lần giở trang sử.
Hiện tượng sùng bái Liễu
Hạnh xuất hiện sau đời Lê Thánh Tông và bộ Luật Hồng Đức. Bộ luật này có ưu điểm
là tiến bộ hơn bộ Luật Gia Long đời sau, nhưng vẫn có những quy định nghiệt ngã
dành cho bọn "xướng ưu", nôm
na là con hát và nghệ sĩ trình diễn: "Ca nhi, đám diễn trò, kẻ bạn nghịch
và lũ tòng vong của kẻ thù, cùng con cháu về sau, thảy đều không được đi thi".
Sĩ làm quan cũng không được lấy kẻ xướng ca vô loài.... Vi phạm thì lãnh 70 trượng
và sụt ba cấp.
Sự hẹp hòi khiến Đào
Duy Từ phải trốn vào Đàng Trong đã xuất phát rất lâu từ trước, từ thời Lê Thánh
Tông. Các Nho thần cúc cung tận tụy với đạo Thánh hiền còn quên một ả đào có công
trong những năm kháng chiến chống quân Minh: nàng chuốc rượu quân thù, cho vào
bao bố trôi sông.
Người phụ nữ không tên
mà có tích này chẳng được nhớ ơn thì dân chúng nghiêng về Liễu Hạnh.
Công chúa Liễu Hạnh có
thể là ca nhi, con hát, một ả đào trong kỹ viện được người xưa gọi khá tục là
"Cung Dâm". Rồi vì ghen tuông hay bất kỳ lý do nào đó mà thiệt mạng và
chẳng có ai lo việc hương khói. Nhưng lại được cư dân xót thương mà chôn cất, rồi
phất dần nhờ lời đồn về chuyện linh thiêng.
Kết cục thì dân ta có một
nhân vật với xuất xứ mơ hồ nhưng lại có ảnh hưởng đến nhiều người khác. Ảnh hưởng
đó cho thấy cả bối cảnh sâu xa ở dưới về chuyện quyền lực....
Quyền
Lực Liễu Hạnh
Trong một giai đoạn quá lâu, chúng ta lầm tưởng về một thế giới cởi mở và hòa đồng giữa ba tôn giáo truyền thống là Nho, Lão, Phật.
Chuyện "Tam giáo đồng
nguyên" được nhiều người ca tụng chỉ là trò phỉnh gạt của hình thái
"chính phủ ba thành phần" sau này. Thực tế thì trong chế độ khoa cử từ
sau đời Lý, giáo trình bắt buộc cho sĩ tử chỉ là lý luận Khổng Nho. Hệ thống Khổng
Nho và các Nho thần chép sử lẫn thầy đồ dạy học đều lặng lẽ đẩy lui tư tưởng Lão
giáo và ảnh hưởng Phật giáo ra khỏi triều đình.
Về sau, những miếu đền
hay chùa chiền gì đều nằm ở ngoài rìa, vì trung tâm sinh hoạt của cộng đồng làng
xã sẽ là cái đình. Không những vậy, việc bài xích Phật giáo còn được coi là phải
đạo, từ đời Lê qua đời Nguyễn. Các ông vua xây nhiều chùa chiền thì bị sử gia đời
sau phê phán là mê tín, hoang phí.
Dân ta có một khoảng trống
mở ra ở Đàng Trong, nhờ chín đời Chúa Nguyễn, từ 1558 đến 1786. Cơ hội giải trừ
ách Khổng Nho và chế độ tự Hán hóa như vậy lại chấm dứt khi Nguyễn Ánh lên ngôi.
Gia Long tự coi như một tiếp nối của nhà Lê và Nho thần viết sử đã cho chín đời
Chúa vào ngoặc đơn.
Ở bên dưới sự thống trị
mặc nhiên của Nho giáo, thì Lão giáo với Phật giáo có đấu tranh mà cũng có hòa
hợp và cứ biến thái dần. Liễu Hạnh là người xuất hiện và hiển linh trong thế giới
nửa Lão nửa Phật đó, nên mới có hình tượng Bồ Tát lẫn gốc gác con gái Ngọc Hoàng,
là một hiện tượng nằm ngoài Phật giáo và xuất hiện khá trễ tại Việt Nam.
Thế rồi, khi thấy Liễu
Hạnh được nơi nơi thờ cúng, Triều đình bèn nhảy vào ăn có, như trong nhiều trường
hợp khác, qua tờ sắc phong là Mẫu Nghi Thiên Hạ. Việc tiếp thu tín ngưỡng đối
nghịch, trước đó bị gọi là "mê tín dị đoan", rồi nâng lên hàng thánh
của mình, vẫn chỉ là chuyện quyền lực muôn thuở.
Nhưng dân gian bất cần!
Họ vẫn cúng bái tế lễ
theo phong cách riêng được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Khát vọng tâm
linh của con người là chuyện muôn đời, từ khi thờ hòn đá, cây đa cho đến các đấng
nhân thần cao quý hơn. Chế độ chính trị ở trên có thể cấm đoán, bài xích chứ
người dân ở dưới vẫn lặng lẽ giữ lòng thủy chung với niềm tin của mình.
Họ lập ra truyền thống
riêng khiến dân Ta chẳng phải dân Tầu mà có những màu sắc đa diện và độc đáo.
Trải qua thời phong kiến tự Hán hóa đến thời thực dân rồi cộng sản, truyền thống
đó vẫn còn.
Và ngày nay, Liễu Hạnh
vẫn sống. Nàng Công chúa hay con hát năm xưa không chỉ hiện diện trong sinh hoạt
của người hầu đồng mà còn rầm rộ thu hút du khách từ mọi nơi và cho phép một chế
độ xuất thân là vô thần được vênh váo nói về "bản sắc dân tộc"....
Qua thế kỷ 21, ảnh hưởng
của Liễu Hạnh có thể được đọc thấy trên một tấm bích chương hai về của nhà nước
tại huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định trong dịp lễ hội ở Phủ Dầy có cả vạn người tham
dự: "Phát huy thuần phong mỹ tục của
lễ hội truyền thống – Kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan và hủ tục".
Vế dưới mới diễn tả sự bất lực của chế độ trước một nàng Liễu Hạnh vô hình mà đầy bóng.
______________
Trích từ trang 87 Việt Báo Xuân Giáp Ngọ.
Bà Olga Dror vừa phiên dịch sang Việt ngữ cuốn "Giải Khăn Sô Cho Huế" của Nhã Ca, với rất nhiều chú giải công phu về biến cố Mậu Thân 1968 tại Huế. Cuốn sách “Mourning Headband for Hue: An Account of the Battle for Hue, Vietnam 1968” do Indiana University Press xuất bản đang được nhà Amazon phát hành. Quý vị có thể đặt mua trước trên website của Amazon theo mạch dẫn sau đây:
http://www.amazon.ca/dp/0253014174/ref=cm_sw_r_fa_asp_sPNsG.0S1HXRY
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét