Quỳnh Giao, Người-Việt Ngày 140720
Tân Nhạc Việt Nam Sau
Di Cư Và Trước Di Tản
Người Việt lãng mạn của chúng ta thường bị giằng xé với hai
giấc mơ tương phản.
Sống tại vùng chập hẹp với giang hồ sông nước là sự cách trở,
chúng ta mơ chân trời xa lạ "như lũ chim quyết tung trời mây"... Và
dù có gặp "biển hồ mêng mông không nơi ngừng cánh tránh gió táp", chúng
ta vẫn "thề quyết ra đi từ đây". Nhạc sĩ Lâm Tuyền ghi lại cho tiềm
thức chung cái giấc mơ đó.
Thế rồi, khi đã toại lòng với "bao năm qua ta sống giang
hồ xa quê nhà, nơi xa xôi muôn ý phiêu lưu dâng cho đời", thì cũng chính
tâm hồn lãng mạn ấy hát khúc ngày về. Giấc mơ hồi hương là phần tương phản của
cái chí tung hoành đi tìm đất lạ.
Nếu đọc lại nhiều bài viết của Vũ Hoàng Chương thì có thể
mường tượng ra giấc mơ giang hồ đó. Nó trải rộng trong hồn thơ chứ vẫn thu hẹp
vào khoảnh đất nhỏ xíu. Từ Nam Định đến Hà Nội đã là một phiêu lưu. Lên tới núi
rừng Việt Bắc thì đấy là cõi bạt ngàn!...
Quỳnh Giao nhắc lại Lâm Tuyền hay Vũ Hoàng Chương vì nhớ tuổi
ấu thơ thao thức của mình khi sắp được đi Vũng Tầu! Lên tới Đà Lạt thì đã tựa
như vào Thiên Thai trong cổ tích....
Thế rồi một biến cố đã giập giấc mơ vào thực tại. Với nhiều
người thì đấy là cơn ác mộng.
***
Hiệp định Genève năm 1954 chia đất nước ra hai vùng giới tuyến
làm nhiều người phải giang hồ thật! Phong trào di cư từ Bắc vào Nam là biến cố
lớn lao nhất thế kỷ, cho đến ngày có cuộc di tản năm 1975 và sau đó.
Nền tân nhạc cải cách Việt Nam xuất phát đầu tiên từ trong
Nam vào quãng 1938-1940. Rồi bùng phát và trưởng thành là ở ngoài Bắc trong thời
kỳ 1945-1954. Đấy là giai đoạn hào hùng mà lãng mạn với rất nhiều ca khúc trữ tình.
Rồi cuộc di cư 54 là một giao động lớn trong thế giới tân nhạc ấy.....
Chúng ta có những nhà soạn nhạc đã thành danh ở miền Bắc. Phần
lớn trong số này cũng là nhạc công, là nhạc sĩ trình diễn chuyên nghiệp với một
hay nhiều nhạc cụ. Những người vào Nam từ trước chỉ là một thiểu số hiếm hoi. Sớm
nhất thì có Lê Thương từ năm 1941, trễ hơn chục năm thì có Phạm Duy và Phạm Đình
Chương trong "gia đình Thăng Long".
Phong trào di cư từ 1954 mới xô đẩy đa số còn lại vào Nam và làm
thay đổi không khí tân nhạc.
Các nhạc sĩ tên tuổi từ miền Bắc có Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh,
Ngọc Bích, Hoàng Trọng và Vũ Thành. Những nhạc sĩ kế tiếp nổi danh như cồn ở
trong Nam thì có Đan Thọ, Nguyễn Hiền hay Nhật Bằng, Cung Tiến, v.v..... Phải gõ chữ vân
vân vì nhiều lắm. Những người còn ở lại miền Bắc, như Văn Cao, Hoàng Giác, Hoàng
Phú, Tô Vũ hay Đoàn Chuẩn, Nguyễn Văn Tý thì hết viết... như cũ.
Nhớ lại chuyện 60 năm trước, chúng ta tự hỏi là lớp nhạc sĩ
di cư đã sáng tác những gì sau đó?
Trong mọi cơn chấn động bàng hoàng, con người chúng ta chỉ là
lũ trẻ thơ. Hãy nhìn bầy trẻ khi chúng hãi sợ hoặc gặp điều phật ý mà khó hiểu.
Có những đứa thì hờn lẫy dẫy dụa, nhưng cũng có đứa lặng người không thể gào khóc.
Còn gào thét là còn tin rằng ai đó sẽ phải lo cho mình, chứ nếu lặng người nín
thinh thì đấy là lúc đứa trẻ bần thần tuyệt vọng nhất.
Sau cơn chấn động như
1954 hay 1975, chúng ta đều lặng người trong tê tái.
Nhưng các nhạc sĩ của chúng ta lại khác bầy trẻ. Họ không nín
lặng mà khóc bằng nhạc.
Cảm hứng viết nhạc hoài hương có sẵn trong tâm khảm đã từ biến
cố 54 đưa tới nhiều ca khúc về cố hương. Không kể những bài đã có từ trước như "Ôi
Quê Xưa" của Dương Thiệu Tước, "Tình Hoài Hương" của Phạm Duy
hay "Hướng Về Hà Nội" của Hoàng Dương, chúng ta nhớ lại "Khóc Biệt
Kinh Kỳ" và "Bên Bờ Đại Dương" của Hoàng Trọng, "Xa Quê Hương"
của Đan Thọ, "Bóng Quê Xưa" của Nhật Bằng và "Tìm Về Bến Xưa"
hay "Thanh Bình Ca" của Nguyễn Hiền, v.v....
Đan Thọ và Nguyễn Hiền là hai nhạc sĩ có nhiều tác phẩm về nỗi
hoài niệm quê hương đã mất kể từ thời 54. Ngày nay, Đan Thọ vẫn còn và có lẽ không
quên sự thổn thức của 60 năm trước.
Ngồi nhớ và nghe lại thì sau biến cố Genève 54, các nhạc sĩ của
chúng ta còn bị giằng xé theo một cách khác. Nhiều người vẫn tin vào một ngày
trở về.
"Giấc mơ hồi hương" của Vũ Thành là tác phẩm đẹp nhất
của đề tài này. Ngoài lời một được gợi lên từ một bài thơ, lời hai của chính tác
giả trong điệp khúc có âm điệu khải hoàn ca: "ngoài chân mây xa bừng lên
muôn ánh hào quang" vì đấy là lúc giấc mơ đã thành, là "cùng dìu nhau
sát vai sống trong tình thương"....
Người khác thì khám phá và hát mừng sự bao la choáng ngợp của
miền đất mới.
Vào Nam từ trước, Phạm Đình Chương sớm ngợi ca miền Nam đôn hậu
từ hình ảnh Cửu Long của trường ca Hội Trùng Dương. Rồi qua năm 1955, ông chấm
nơi này là "Đất Lành" và hát về mối tình Nam-Bắc một nhà: "Em
gái Bắc Ninh, anh trai Biên Hòa. Em đất Thanh Nghệ, anh nhà Cà Mâu. Đồi nương thương
sức cần lao, Se duyên Nam Bắc ngọt ngào
tình yêu"....
Cũng trong dòng nhạc đó, trường ca "Con Đường Cái
Quan" do Phạm Duy thai nghén từ năm 54 tại Paris và hoàn thành về sau ở
trong Nam đã có những giai điệu tốt tươi nhất - chữ "tốt tươi"
là của ông – là từ đoạn 16 trở về sau, khi chàng lữ khách mơ giấc hải hồ vào tới
trong Nam!
Trong số nhạc sĩ di cư, Hoàng Trọng nổi danh từ đất Nam Định
với nhiều ca khúc luyến nhớ. Sau khi vào Nam, từ "Mộng Ngày Hồi Hương"
năm 1956, ông hòa vào niềm vui mới qua bài "Đẹp Mùa Yên Vui" sáng tác
năm 1958 với lời từ của Hồ Đình Phương: "Miền Nam mưa nắng giao hòa, Câu hát
câu hò say trời quê đẹp như gấm hoa..."
Sự giằng xé dễ hiểu mà đáng thương của người viết nhạc diễn tả
tâm tình day dứt của chúng ta giữa cái cũ đã mất và cái mới đã thành đời sống
thật.
Ngồi hát lại trong tâm tưởng, "Con Đường Cái Quan" đã
từ đoạn Cửu Long Giang mà hò "Về Miền Nam" và dẫn tới đoạn kết là
"Đường Đi Đã Tới". "Về Miền Nam" cũng là tên ca khúc của Trọng
Khương. Chúng ta không đi nữa mà về. Thâm tâm hát mừng như vậy thật, chứ không
vì sự tuyên truyền của loại nhạc cổ động, mà dẫu gì thì hai miền vẫn chung một
đất nước.
Rồi thời gian và sự tự do của miền Nam hàn gắn tất cả và dẫn
tân nhạc qua một thế giới khác lạ.
*
Sau khi đất nước chia đôi, trong số đông đảo các nhạc sĩ và
ca sĩ di cư vào Nam có nhiều nhạc công cự phách. Nhạc khúc mới và cách trình diễn
tân kỳ thổi gió mới vào nhạc qua đài phát thanh, qua phần phụ diễn văn nghệ của
phim chiếu bóng rồi các đại nhạc hội, phòng trà hay khiêu vũ trường....
Khác bộ môn văn chương là nơi mà lối viết của dân miền Nam làm
phong thái chân phương của nhà văn miền Bắc trở thành sống động hơn, với những đối
thoại rất gần với thực tế ngoài đời, bộ môn tân nhạc ở miền Nam lại tiếp nhận tính
chất trang nhã nhiều khi cầu kỳ của ca nhạc sĩ di cư từ miền Bắc.
Nghệ sĩ di cư
như Dương Thiệu Tước, Vũ Thành, Hoàng Trọng, Anh Ngọc cùng các ban nhạc và lối
hòa âm đã thật sự làm tân nhạc miền Nam đổi khác. Từ đó, các nhạc sĩ trong Nam
không còn viết như trước nữa, nhiều ca sĩ cũng trình bày theo giọng Bắc.
Sau đấy còn có sự đóng góp của đông đảo thi sĩ di cư từ miền
Bắc, và cả các nhà thơ tòng quân nhập ngũ, khiến nghệ thuật phổ thơ vào nhạc còn
đem lại một phong thái khác hẳn cái thời mà chúng ta gọi là "tiền chiến".
Cũng từ đấy, người nghe khó phân biệt được sáng tác Y Vân, Nguyễn
Văn Đông, Lê Dinh, Minh Kỳ hay Lam Phương với ca khúc của nhạc sĩ di cư đất Bắc.
Nếu có khác thì đấy là giữa thể loại ca khúc của thành phố thanh bình, có men rượu,
khói thuốc và cả một chút Paris, với nhạc chân quê hay nhạc của người lính thời
chiến.
Cho đến khi Nam Bắc thật sự là một nhà, và khi nền tân nhạc hết
phân biệt hậu phương hay tiền tuyến thì chúng ta gặp cuộc đổi đời thứ hai, biến
cố 1975. Lần này cũng vẫn phong ba giông tố, nhưng không là một nơi chốn mới của
quê hương mà là một sự giã biệt bi thảm hơn. Sang năm, chúng ta sẽ viết lại
chuyện này....
*
Từ nhiều tháng nay, người viết ngồi dưỡng bệnh bằng nhạc, cho
đến khi Chủ bút Thiện Giao yêu cầu một bài đặc biệt về tân nhạc trong và sau biến
cố 54.
Không vì "yêu sách" của tờ báo mà vì yêu nhạc, Quỳnh Giao cố gõ lại trí nhớ mà gửi độc giả bài này, với một kết luận là sự tri ân của một người đã nghe và hát: "Nền tân nhạc Việt Nam có nhiều tác phẩm nghệ thuật nhất, và đáng nhớ nhất vì còn được hát ngày nay, là ở miền Nam, trong giai đoạn 1954-1975. Trước đấy thì chưa có và sau đó thì không còn...."
_______________________
Bài này là "tạp ghi" cuối cùng của Quỳnh Giao, viết trong nhiều ngày và hoàn tất ngày 14 Tháng Bảy. Xin ghi vào đây như một kỷ niệm....
..."Sau cơn chấn động như 1954 hay 1975, chúng ta đều lặng người trong tê tái...."
Trả lờiXóaVâng, đúng như vậy!
Và bây giờ lòng tôi vẫn còn tái tê khi nhìn về một Việt Nam bây giờ tan hoang...không còn một Việt Nam của một ngày xưa.
Xin cảm ơn chị Quỳnh Giao đã diễn tả vô cùng chính xác nỗi đau thương của những đứa con Việt Nam bất hạnh trong hai biến cố đau thương đầy máu và nước mắt này.
Chị hãy an nghỉ trong giấc ngàn thu sau khi đã làm tròn bổn phận của một kiếp người Việt Nam đau buồn.
8CL
Đọc hết bài tạp ghi để hiểu thêm về người vừa nằm xuống. Xin thành kính phân ưu cùng gia quyến ông Nguyễn Xuân Nghĩa!
Trả lờiXóaXin được chia buồn cùng bác Nguyễn Xuân Nghĩa và gia quyến.
Trả lờiXóa