Nguyễn-Xuân
Nghĩa - Tuần báo Sống141224
"Vùng Oanh Kích Tự
Do"
Nước mắt đầu năm vẫn ấm lòng
* Quân Pháp đánh quân Cờ Đen và chiếm Lạng Sơn *
Mở đầu một năm mới, ai chẳng muốn nói chuyện vui? Huống chi người viết còn bị vướng vào cái lẽ "nhật nhật tân". Nôm na là hàng ngày làm mới.... Nhưng mà làm mới cái gì?
- Những cái mốc xì ta đánh xi cho mới!
Thì xin vâng.
Với người Việt ta, chữ "Nhật Tân", hay tinh thần làm
mới, thật ra là khái niệm phổ thông. Ta có nhiều ngôi làng mang tên là Nhật Tân,
đếm ra được ba bốn cái ở miền Bắc. Tết nhất chẳng hạn, những ai nhớ Bắc đều nói
đến hoa đào của Nhật Tân. Nghe nói là đào năm nay chưa Xuân đã nở toét. Làm mới
quá sớm!
Và cây cầu do Nhật viện trợ để nối liền quận Tây Hồ với Đông
Anh ở Hà Nội cũng có tên Nhật Tân. Cầu thiết kế theo phương pháp cầu dây, mà hiện
đại hơn nên được gọi là cầu dây văng, hay "cable-stayed bridge, pont à
haubans", người Trung Hoa gọi là "tà lạp kiều". "Tà lạp"
có nghĩa là kéo nghiêng, nhưng biết đâu là vào tay ta thì "lạp" lại mang
nghĩa "bẻ gãy"?
Được tuyên truyền là loại cầu dây văng dài nhất, cầu Nhật Tân
vừa mới được lệnh phải hoàn thành năm 2014 này. Như kinh nghiệm cầu đường khá cầu
kỳ của Việt Nam sau "đổi mới", có khi cây cầu tà lạp lại bị rút ruột,
nên mới vận vào chữ "bẻ gãy"...
Hãy nói về chuyện xưa hơn thế mà vẫn như mới thì đời mới cười
như mếu.
***
Đa số ngày nay còn mấy ai biết tới ông Bảng Kim Bồng Vũ Duy
Thanh? Nếu có "google" hay tìm đọc sách cũng khó nhớ ra.
Sinh năm 1806 tại Ninh Bình và mất năm 1861 khi quân Pháp đã
tấn công nước ta, Vũ Duy Thanh cực kỳ thông minh, sách liếc qua là thuộc, lại có
tài ứng đối, nhưng chừng là tiến nhanh hơn thời đại – hoặc quan trường – nên đến
45 tuổi mới đỗ Phó bảng, triều Tự Đức, năm 1851. Vì sinh tại làng Kim Bồng mà đỗ
Phó bảng nên mới được đương thời gọi là ông Bảng Kim Bồng.
Nói đến chuyện thời đại, một hôm viên quan đầu tỉnh của Quảng
Yên dâng về triều một khối đá sắc đen với lời tâu rất lạ. Lạ thế nào thì xin đọc
tiếp, chỉ cần nhắc khẽ Quảng Yên đó nay thuộc tỉnh Quảng Ninh, vùng đất có biên
giới trên bộ và trên biển tiếp cận với Trung Quốc. "Nhật nhật tân" là
chuyện hiện đại mà!
Ông quan đầu tỉnh thấy vật lạ nên đệ về kinh với lời tâu:
"Bọn thổ dân trong khi đào hầm đến tầng đất sâu, thấy có
nhiều lớp đá này, đua nhau cuốc lấy, đẽo làm đầu rau để thổi nấu rồi thấy phát
cháy thành lửa có sức nóng rất đượm. Có lẽ đây là thứ đá kỳ quái trời sinh ra để
báo điềm gì chăng? Nên phải lập tức tâu trình."
Tự Đức ú ớ, hỏi triều đình thì nghe chừng còn thua "bọn
thổ dân" bị ta khinh miệt. Vì mấy vị đại thần vén môi tâu rằng đấy là quái
vật! Còn chu đáo xin làm lễ "nhương
trừ" để ngăn trước một tai nạn cho dân cho nước. Nhương trừ hiểu nôm na là
bắt quỷ.
May là thời đó có Vũ Duy Thanh. Đang ốm bệnh ở nhà nghe thấy
chuyện lạ, ông lết vào chầu và xin cho xem viên đá. Vừa thông thấy, ông vội tâu:
"Đá này chỉ là vật tầm thường, có là ma quỷ gì đâu. Sách
Hán thư kể rằng vua Vũ Đế đào ao Côn
Minh đã từng thấy. Một vị cao tăng đất Tây Vực có nói: "thử thị thiên địa hôi kiếp", là thứ
tro tàn trong một cuộc đổi thay của trời đất. Mỗi cuộc bể dâu cỏ cây bị vùi dập
trong vạn vật, rồi đời nọ qua đời kia kết lại như thế. Đã không là vật quái đản
phải trừ khử, nó còn là vật hữu ích nên tìm cách lợi dụng. Vì đốt cháy được thì
ta có thể làm than thay củi. Nếu miền ấy có nhiều thứ này thì đấy là nguồn lợi
lớn của nước nhà, xin kíp phái quan đến tận nơi xem xét, chớ nên bỏ hoài."
Sự quái ở đây không là cục đá đen mà là triều đình. Họ gác
chuyện lạ qua một bên rồi lãng quên tất cả. Sự quái hơn nữa là sau này triều đình
chẳng nhớ gì mà còn ký giấy nhượng đất này cho Pháp khai thác thành mỏ than Hòn
Gay! Sự quái còn hiện đại hơn nữa là các quan đầu tỉnh ngày nay tiếp tục bán
than lậu cho Tầu lấy tiền bỏ túi rồi ta nhập cảng điện của Tầu sản xuất từ than
của ta!
Than đến bao giờ mới hết chuyện xưa?
Cũng Vũ Duy Thanh, năm 1959 khi Pháp đánh lấy cảng Đà Nẵng và
ba tỉnh miền Đông ở trong Nam, thì ông nhìn ra võ khí hiện đại của giặc mà tìm
cách chế lấy một chiếc thuyền chạy bằng hơi nước. Dù chưa tinh xảo thì đã là sáng
kiến. Nhưng vẫn bị các bậc đại khoa trong chiều Tự Đức cho... chìm xuồng. Gác vào
một xó!
Cái khó nó bó cái khôn? Trậc lấc, thiếu khôn nên mới bị khó....
Vũ Duy Thanh bị bệnh và từ trần ở tuổi 56. Trên gường bệnh, ông
vẫn thảo sớ dâng lên triều về chuyện thời sự. Sớ chưa xong ông đã mất, nhưng các
thuộc quan tiếc tài nên vẫn sao lại và lập di cảo tâu lên Tự Đức. Đọc tóm lược
bài sớ, ta bỗng thất kinh!
"Hình thể nước ta
chỉ có chiều dài không có chiều rộng. Trừ hai xứ Nam và Bắc Kỳ rộng hơn một
chút, còn quãng ở giữa từ Thanh Hoá trờ vào, Bình Thuận trở ra, mặt trông ra
biển, lưng tựa núi rừng, mỗi tỉnh ở một đoạn. Nếu thốt nhiên tỉnh nào gặp biến
bị cắt đường giao thông thì việc tiếp tế quân lương tất bị cản trở. Vả, suốt từ
Bắc đến Nam, chạy dài theo mé biển, phỏng như nước ngoài dòm nom thì bất cứ chỗ
nào họ cũng có thể lọt vào được. Như vậy, việc phòng giữ mặt biển rất quan
trọng. Điều cần là phải kíp luyện tập thủy quân, hậu đãi binh lính và giao
quyền hành cho các quan võ để họ có đủ uy tín mà điều khiển"....
Tuy Tự Đức châu phê trên sớ lời khen vị quan văn này nhưng lại
cho là việc chưa cần làm.
Giời ơi!
Người viết này ưa nhìn vào địa dư rồi tìm đọc lịch sử khi nghĩ
đến thời sự. Vũ Duy Thanh viết về địa dư hiểm yếu của nước ta. Hiển nhiên là không
quên nhiều chiến công hiển hách nhất của lịch sử nước Nam cũng là thủy chiến.
Sau ông hơn 150 năm, lời cảnh báo trong cơn hấp hối đang là sự thật, nếu ta nhớ
đến các dự án bauxite tại Cao nguyên Trung phần hay những công trình mờ ám trên
đèo Hải Vân. Cùng một công trình sư là Trung Quốc.
Và ngoài khơi kia là tầu của Tầu Cộng!
***
Ngoài nhiều quyết định biến báo khi làm quan, Vũ Duy Thanh còn
có cái công là biết tìm người tài.
Năm Tự Đức thứ tám, 1855, ông được cử vào làm phân khảo quan ở
trường thi Bình Định. Khi chấm bài, có một quyển ba dấu sơ khảo, phúc khảo và
giám khảo đều phê 'liệt". Cả ba cấp dưới đều đánh hỏng. Lên tới ông, Vũ
Duy Thanh khảo lại, thấy thí sinh có tài học và khí phách khác thường, chắc là
sau này có sự nghiệp lớn. Ông bèn phê "bình" và lấy vào hạng trúng
tuyển. Sau khi quán quyển thì mới biết thí sinh tên là Ông Ích Khiêm.
Nhờ dấu phê của Vũ Duy Thanh mà triều đình về sau có một văn
thần kiêm võ tướng có sự nghiệp khác thường khi nước nhà gặp chuyện bất tường. Không
chỉ có sự nghiệp, và cái chết oan uổng – đầu năm nên tránh chuyện đau! – Ông Ích Khiêm còn
có bài thơ để đời. Như là thời sự.
Số là nhà Mãn Thanh đã lụn bại
sau vụ nổi loạn của Hồng Tú Toàn và phong trào nhuốm mùi tôn giáo vào năm 1850
là "Thái bình Thiên quốc". Vụ khởi nghĩa làm Thanh triều rung chuyển,
xuýt bị lật đổ nên mới giải thích vì sao lãnh đạo Bắc Kinh ngày nay sợ giáo phái
Pháp luân công hay Phật giáo Tây Tạng, Hồi giáo Tân Cương!
Giáo phái Thái bình Thiên quốc
của Hồng Tú Toàn nổi lên từ hai tỉnh miền Nam giáp giới với nước ta là Quảng Đông Quảng Tây. Sau
này, dư đảng Hồng Tú Toàn mới trở thành đám giặc Cờ Vàng, Cờ Trắng và Cờ Đen
qua nhũng nhiễu miền Bắc nước ta.
Khi ấy nước ta có loạn vì bị
giặc Pháp tấn công, triều Tự Đức chống cự không nổi nên nghĩ cách nương vào
Trung Quốc. Nhưng, Tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh gửi mật sớ lên vua
Thanh, rằng: "nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam
suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà
đóng giữ các tỉnh thượng du. Đợi khi có biến thì chiếm lấy những tỉnh ở về phía
bắc sông Hồng Hà".
Bởi vậy triều Thanh mới sai Tạ
Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng đem quân sang đóng ở Bắc Ninh và ở Sơn Tây, sau lại
sai quan bố chính Quảng Tây là Từ Diên Húc đem quân tiếp ứng. Mưu của họ là như
vậy.
Triều đình ta thì cứ thoải mái
như người Hà Nội thời nay mà mượn tay - phục vụ - quân Tầu để họ đánh Tây trên đất
Việt. Đang làm quan tham tri lo việc chống Pháp, khi ra tới Bắc Kỳ, Ông Ích Khiêm
coi đó là cực nguy hiểm nên có làm bài thơ dữ dội:
Áo
chúa cơm vua đã bấy lâu
Ðến
khi có giặc phải thuê Tàu!
Từng
phen võng giá mau chân nhẩy
Ðến
bước chông gai thấy mặt đâu
Tiền
bạc quyên hoài dân xác mướp
Trâu
dê ngày hiến đứa răng bầu
Ai
ôi hãy chống trời Nam lại
Kẻo
nữa dân ta phải cạo đầu.
Kẻo nữa dân ta biến thành Tầu.
Từ Vũ Duy Thanh đến Ông Ích Khiêm, nước Nam nào thiếu người
nhìn ra đại thế thiên hạ?
Vào năm mới, nói chuyện xưa từ
sử Tầu vào thời đại ấy thì ta cũng thấy ra nhiều chuyện lạ mà... hiện đại. Thí
dụ như Hồi giáo đòi tự trị, các tỉnh miền Nam đòi tách riêng, và liệt cường Tây
phương, kể cả nước Nga, thì gõ cửa đòi giao thương làm ăn. Triều Thanh khi ấy
hoang mang, hốt hoảng mà vẫn còn ý định xâm lấn nước ta. Vậy mà triều đình nước Nam
vào năm 1882 còn cầu cứu Trung Hoa. Đó là lý do khiến ngoài đám giặc Cờ Đen của
Lưu Vĩnh Phúc, Bắc Kinh còn phái thêm bốn vạn quân của các tỉnh Quảng Đông Quảng
Tây qua đánh Pháp.
Rốt cuộc thì lãnh thổ nước Nam
thành địa bàn giao tranh Thanh-Pháp trước sự lúng túng của triều đình. Rồi vì
nội loạn và kiệt quệ, nhà Thanh đành ký hòa ước Thiên Tân năm 1883 để thừa nhận
là nhường chủ quyền trên đất nước ta cho thực dân Pháp.
Sau đấy 60 năm, sai lầm cũ lại
tái diễn khi Cộng sản Việt Nam mượn quân Tầu đánh Tây rồi đánh Mỹ. Lần này thì
chưa biết làm sao thoát vì đảng ta tự nhận là phụ dung của đảng nó ở Trung Quốc.
Khách có kẻ đứng bên hỏi người
viết vì sao chúc mừng năm mới mà mặt mày u sầu như vậy? Xin thông cảm!
Kết luận ở đây là gì,
Trả lờiXóaThất phu Hữu trách, Hoàng đế Việt gian.
Muốn làm Việt gian thì còn phải có mưu. Tự Đức tăm tối vô mưu mà trong các vấn đề trọng đại của đất nước thời ấy thì chỉ nghĩ đến bản thân.
XóaNăm 1868, trong khóa thi Hội, đề thi bài văn sách loại kim (khác với loại cổ, là bàn về chuyện xưa) là "công thủ chi sách". Trước sự khiêu khích của thực dân Pháp thì nên đánh hay hòa?
Đa số sĩ tử cùng đề nghị thế công. Có Vũ Duy Tuân viết bài xuất sắc nhất thì được Tự Đức châu phê (bằng mực đỏ) bên cạnh:
"Kim nhật thỉnh chiến, minh nhật thỉnh chiến, chiến như bất thắng, tương trí trẫm ư hà địa"? Nay đòi đánh, mai đòi đánh, đánh không thắng thì đặt trẫm ở đâu?
Hoàng đế chỉ lo cho cái ghế để kê phao câu cho êm.
Người sĩ tử Vũ Duy Tuân viết bài văn sách ấy không được đỗ tiến sĩ, vì khảo quan hiểu ý nhà vua nên chỉ cho đỗ Phó bảng. Không có họ gì với Vũ Duy Thanh đã nói ở trên....
Khi làm quan Ngự sử, thấy Tự Đức cứ quấn quít bên mẹ mà chểnh mảng việc nước dù tình hình đã rối beng, Vũ Duy Tuân đã dâng sớ: "Nhà cháy đến nơi mà mẹ con chim én chim sẻ ở đầu nhà vẫn cứ mớm nhau, ra chiều vui vẻ, tự cho là yên ổn lắm!"
Quả nhiên là bị Tự Đức giận mà mỉa mai là "có cái bằng tiến sĩ mà đỗ không xong!"... Ai oán!
Ai oán ai bây giờ?
NXN
Em thì cho là Tự Đức thức thời khi thấy rằng Garnier với 200 binh không tổn thất dễ dàng hạ thành Hà Nội của Nguyễn Tri Phương năm 1873 và Rivier với 230 binh tiếp tục hạ thành Hà Nội của Hoàng Diệu. Pháp 2 lần chiếm thành Hà Nội nhưng An Nam chưa một lần lấy lại từ tay Pháp, chứng tỏ mục đích hành quân của Pháp không nhằm chiếm đất mà chỉ là bắt buộc Nam triều phải thực hiện những điều khoản đã ký kết.
XóaTuy nhiên, tính chất Việt gian của Tự Đức là ở chỗ thay vì hợp tác với Pháp thì lại mời nhà Thanh vào để Pháp - Thanh chia chác mảnh đất Bắc Kỳ.
Lý Toét nói vậy là con cháu của Bác động lòng đấy. Việt gian là khi triều đình của Bác mời Tầu vào, rồi con cháu của Bác chia chác quá nhiều thứ cho họ.
XóaAi oán ai bây giờ?