Diễn đàn Kinh tế
Hôm Thứ Bảy, mùng một Tháng 10, đồng bạc của Trung Quốc chính thức
trở thành một ngoại tệ dự trữ trong cái rổ ngoại tệ của Quỹ Tiền Tệ Quốc
Tế, ngang hàng đồng Mỹ kim, đồng Euro, đồng Anh kim và đồng Yen Nhật.
Biến cố cứ tưởng như trọng đại này thật ra lại không được các thị trường
tài chính quốc tế quan tâm bằng câu hỏi là Trung Quốc sẽ xóa nợ như thế
nào, với hậu quả ra sao?
Chưa có miếng lại muốn có tiếng
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam
xin kính chào kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông kể từ mùng một
Tháng 10, đồng Nguyên của Trung Quốc chính thức trở thành một ngoại tệ
dự trữ trong cái rổ ngoại tệ gọi là Quyền Trích Xuất Đặc Biệt của Quỹ
Tiền Tệ Quốc Tế IMF. Thính giả của chúng ta muốn biết điều này có ý
nghĩa là gì và sẽ có hậu quả ra sao? Ông nghĩ thế nào về thắc mắc đó?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trên diễn đàn này thì từ năm ngoái, chúng
ta đã đề cập tới việc Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế nhận cho đồng Nguyên của Tầu
được nằm trong cái rổ gọi là Quyền Đặc Trích cùng bốn ngoại tệ thông
dụng kia, là đồng đô la Mỹ, đồng Euro, đồng Anh kim và đồng Yen Nhật.
Chúng ta sẽ tìm hiểu lại của sự kiện đó để thấy là nó không có ý nghĩa
gì và quả thật như vậy vì các thị trường tài chính thế giới đã chẳng mấy
chú ý đến cái sự vinh hiển hình thức mà không thực chất về Trung Quốc.
Trái lại, người ta quan tâm đến việc nền kinh tế này sẽ phải xóa nợ ra
sao vì chuyện ấy mới có ảnh hưởng đến kinh tế thế giới.
Về kinh tế thì Trung Quốc mới chỉ có tiếng chứ thật ra vẫn chưa có miếng và bây giờ lại muốn có tiếng về ngoại hối thì có khi lại hối hận! Nguyễn-Xuân Nghĩa
Trước hết về rổ Đặc Trích, gọi tắt là SDR từ chữ Special Drawing Rights,
thì đấy là một quỹ ngoại tệ do Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF lập ra từ năm
1969 để cấp cứu các nước nhất thời bị khó khăn về ngoại hối hay hối đoái
có thể dùng để thanh toán thiếu hụt ngoại tệ. Trong cái quỹ ngoại tệ
tổng hợp có mục tiêu bổ sung ấy, IMF lấy số trung bình gia trọng của bốn
ngoại tệ thịnh hành nhất là Mỹ kim, Euro, Anh kim và đồng Yen. Gia
trọng là tăng hay giảm tầm quan trọng. Tùy theo tầm quan trọng của từng
ngoại tệ trong luồng giao dịch toàn cầu mà IMF cho một hệ số rồi dùng hệ
số ấy tính ra số trung bình hay bình quân của loại ngoại tệ tổng hợp và
thật ra cũng giả tạo. Nếu quốc gia nào trong số 189 thành viên của IMF
mà cấp bách gặp khó khăn về thanh toán thì có thể bán ngoại tệ SDR này
của mình cho nước khác để đổi ra đống ngoại tệ họ cần cho yêu cầu chi
phó. Bây giờ thì rổ SDR có thêm đồng Nhân Dân Tệ hay Renminbi mà tôi gọi
là đồng Nguyên cho tiện.
Nguyên Lam: Thưa ông, hậu quả của việc đồng Nguyên được nằm
trong cái rổ SDR mà ông gọi là Đặc Trích là gì, từ nay, vị trí của đồng
bạc Trung Quốc có gì thay đổi không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trong luồng giao dịch mua bán toàn cầu thì
chuyện này chẳng có hậu quả đáng kể vì loại ngoại tệ tổng hợp ấy chỉ là
một phần của dự trữ ngoại tệ mà các ngân hàng trung ương lưu giữ chứ
không vì vậy mà các ngân hàng trung ương sẽ trữ thêm dồng Nguyên trong
kho dự trữ của mình. Mà đồng bạc thật ra là giả tạo này chỉ được các
ngân hàng trung ương trao đổi với nhau chứ không hề được người ta mua
hay bán như các ngoại tệ kia. Nói cho gọn thì trong luồng giao dịch hối
đoái là buôn bán ngoại tệ trên thị trường, đồng Nguyên chỉ chiếm có 4%,
so với 88% của đồng Mỹ kim hay 22% của đồng Yen Nhật.
Nguyên Lam: Nếu như vậy thì tại sao Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF lại nhận đồng Nguyên vào cái rổ SDR này làm gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: IMF quy định rằng muốn được nhận vào trong
rổ Đặc Trích thì ngoại tệ ấy phải được tự do sử dụng mua bán. Trung Quốc
muốn đồng Nguyên có giá trị tinh thần và hình thức, là uy tín bề ngoài,
nên yêu cầu như vậy với hứa hẹn giải phóng quy chế trao đổi cho tự do
hơn. Dù chẳng mấy tin vào lời hứa hẹn, từ năm ngoái, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
IMF nhận đồng Nguyên vào trong rổ, có thể với mục tiêu là giàng Trung
Quốc vào những cam kết với quốc tế mà còn tránh bị mang tiếng là kỳ thị
hay phân biệt đối xử với nền kinh tế đứng hàng thứ nhì trên thế giới.
Thực tế thì lãnh đạo Bắc Kinh vẫn duy trì chế độ kiểm soát hối đoái và
quyết định về tỷ giá hay hối suất đồng bạc chứ cũng chưa thật sự giải
phóng như đã hứa hẹn mặc dù bên trong đảng cũng có nhiều người chủ
trương cải cách như vậy.
Tuy nhiên, vì muốn có thêm danh hão thì họ vẫn bị áp lực giải tỏa và
điều ấy cũng khiến họ phải dần dần chấp hành luật chơi của các nước văn
minh, với rủi ro là đồng Nguyên sụt giá so với các ngoại tệ khác, nhất
là Mỹ kim. Và nếu để tự do thì tư bản và tài sản dễ tháo chạy khỏi thị
trường nội địa cho nên Bắc Kinh cứ đắn đo co giật, khi xả khi xiết. Về
kinh tế thì Trung Quốc mới chỉ có tiếng chứ thật ra vẫn chưa có miếng và
bây giờ lại muốn có tiếng về ngoại hối thì có khi lại hối hận!
Người Tàu xé áo của nhau
Nguyên Lam: Nói đến rủi ro tẩu tán tư bản ra nước ngoài thì
chúng ta lại trở về vấn đề nổi cộm mà diễn đàn này đề cập cách nay hai
tuần. Thưa ông đó là một vụ khủng hoảng tài chính như Ngân hàng Thanh
toán Quốc tế BIS cảnh báo từ tháng trước trong phúc trình cập nhật của
họ. Ông đánh giá thể nào về rủi ro này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi cho là Trung Quốc có hai tầng rủi ro,
thứ nhất là món nợ quá lớn của hệ thống ngân hàng, bên trong là các
khoản nợ xấu, khó đòi và sẽ mất. Thứ hai là núi nợ còn lớn hơn mà nền
kinh tế nói chung đã tích lũy quá nhanh trong mấy năm qua và thể nào
cũng sụp đổ. So sánh hai tầng rủi ro thì một vụ khủng hoảng ngân hàng vì
vỡ nợ trong vòng ba năm tới thật ra vẫn chưa đáng kể bằng khủng hoảng
kinh tế kéo dài vì núi nợ sụp đổ. Như mọi doanh nghiệp hay quốc gia mắc
nợ, bài toán là làm sao thanh toán các khoản nợ ấy? Tiêu chuẩn đo lường
rủi ro có thể là “nghĩa vụ trả nợ”, gồm cả lời lẫn vốn, so với khả năng
sản xuất hay tạo thêm của cải để còn trả nợ. Người ta cứ tưởng nền kinh
tế có sản lượng thứ nhì thế giới và có gần ba ngàn tỷ đô la dự trữ thì
cũng sẽ thoát hiểm, nhưng sự thật lại không được như vậy.
Nguyên Lam: Nếu đặt vấn đề như vậy, thưa ông, phải chăng
bài toán của Trung Quốc là làm sao trả nợ và chìm sâu bên dưới là nếu
không thể trả nợ thì làm sao xóa nợ, ai sẽ xóa nợ cho ai?
Việc đồng Nguyên vào rổ ngoại tệ chẳng có hậu quả quốc tế gì đáng kể, khủng hoảng về nợ nần tại Trung Quốc cũng không gây hiệu ứng cho hệ thống tài chính quốc tế. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Câu hỏi “ai sẽ xóa nợ cho ai” mới giúp
chúng ta nhìn ra vấn đề thật. Một nền kinh tế mắc nợ quá nhiều thì chỉ
còn giải pháp duy nhất là san xẻ cho nhau cái gánh nợ đó mà không gây
hậu quả quá bất lợi cho kinh tế. Gần hai chục năm trước, Trung Quốc cũng
từng bị khủng hoảng tài chính khiến nhà nước mất hai trăm tỷ xóa nợ và
đè một phần núi nợ này cho các hộ gia đình. Bây giờ vì nền kinh tế mắc
nợ cao gần gấp ba sản lượng thì số nợ bị mất sẽ cao gấp bội, khi ấy ta
nên tự hỏi là ai sẽ mất? Quyết định kinh tế này có nội dung chính trị mà
cũng có hậu quả lâu dài cho hệ thống sản xuất.
Vấn đề cốt lõi của Trung Quốc là do yêu cầu chính trị, lãnh đạo xứ
này muốn kềm hãm nạn thất nghiệp bằng cách bơm tiền đầu tư nhưng vì đầu
tư vào các khu vực kém hiệu năng nên mới chất lên một núi nợ. Bây giờ,
khi nợ đã chất đống thì làm sao phân phối khối nợ bị mất để chấn chỉnh
lại hệ thống chi thu? Họ phải tìm cách chia khoản nợ bị mất cho khu vực
nào ít bị hậu quả tai hại nhất. Khủng hoảng tài chính và ngân hàng là
chuyện đáng sợ, nhưng xóa nợ đúng chỗ mới là bài toán thật. Vì vậy, dù
lãnh đạo Bắc Kinh cứ tranh luận về yêu cầu cải cách theo hướng này hướng
nọ, vì kinh tế không tăng trưởng cho kịp nhu cầu trả nợ nên lãnh tụ
phải quyết định xem ai lãnh một tụ nợ!
Nguyên Lam: Theo như chúng ta hiểu thì từ bốn năm nay, lãnh
đạo Bắc Kinh muốn chuyển hướng kinh tế và dồn lực đẩy vào tiêu thụ nội
địa thay cho đầu tư và xuất khẩu. Thưa ông, liệu rằng cái hướng đó có
giúp gì cho việc phân phối các khoản nợ bị mất không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng ta nên suy ngẫm như thế này về bài
toán xóa nợ của Bắc Kinh: Thành phần hay khu vực nào bị mất nợ thì ít
gây hậu quả kinh tế hay chính trị cho chế độ?
Thứ nhất là thành phần chủ nợ, vì bất cẩn mà cho vay không đúng chỗ
thì phải mất nợ. Đa số các khoản nợ này là qua hệ thống ngân hàng mà hệ
thống đó là của nhà nước nên các ngân hàng của nhà sẽ mất nợ. Tuy nhiên
vì khối nợ bị mất lại cao hơn vốn của ngân hàng nên sau cùng nhà nước bị
mất vốn sẽ bắt ai đó cùng gánh chịu. Ai đó có thể là các hộ gia đình
nhưng nếu phải chia gánh nợ thì làm sao tiêu thụ để kích thích kinh tế.
Thành phần thứ hai là các doanh nghiệp, lớn nhất và kém hiệu năng nhất
là doanh nghiệp nhà nước. Nếu doanh nghiệp phải gánh thì cũng lại là nhà
nước thôi. Trên doanh trường Trung Quốc thì loại xí nghiệp nhỏ và vừa
lại có hiệu năng cao, đa số là của tư nhân. Bắt các cơ sở tiểu doanh
thương phải chia gánh nợ thì kinh tế sẽ không có tăng trưởng, cho nên
sau cùng vẫn là nhà nước phải chịu mất vốn từ các doanh nghiệp lớn của
nhà nước.
Thứ ba, và đây là đặc điểm kinh tế chính trị của Trung Quốc, các
chính quyền địa phương đã can thiệp mạnh vào kinh tế và tích lũy một
khối tài sản rất lớn như đất đai hay bất động sản. Nếu họ phải gánh một
phần nợ bị mất thì sẽ bán các tài sản này để có tiền mặt. Về kinh tế thì
sự chọn lựa ấy có thể làm giảm lượng tiết kiệm nhưng không gây thiệt
hại cho sản xuất. Song le về chính trị thì y như với doanh nghiệp nhà
nước, nhiều đảng viên cán bộ cao cấp có thể cưỡng chống vì quyền lợi bị
thiệt hại. Sau cùng thì mọi sự vẫn trút về chính quyền trung ương. Nhà
nước Bắc Kinh sẽ mất vốn trong các ngân hàng, doanh nghiệp và ngân sách
như trường hợp xảy ra cho nhiều quốc gia mắc nợ, nhưng khi ấy làm sao
duy trì được cái thế chủ đạo của nhà nước trong kinh tế và làm sao vượt
qua được sự cưỡng chống ở ngay trong đảng? Trong khi lãnh đạo còn đắn đo
thì kinh tế vẫn tiếp tục nợ nần tới mức nguy ngập.
Nguyên Lam: Khi ông tóm lược bằng hình ảnh chia cho mỗi
thành phần một núi nợ sẽ mất thì có lẽ người ta mới thấy ra yếu tố chính
trị tiềm ẩn bên dưới. Nhưng trong các thành phần ấy, không thấy ông nói
tới khu vực ngoại quốc? Các doanh nghiệp quốc tế đã đầu tư hay buôn bán
với Trung Quốc có bị thiệt hại vì mất nợ không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi không nghĩ rằng họ bị dính vào chuyện
nợ nần đó tới mức bị vỡ nợ và về mặt ngoại giao chính trị Bắc Kinh cũng
chẳng muốn một vụ khủng hoảng nợ nần bùng nổ trên trường quốc tế nên
cuối cùng thì doanh nghiệp ngoại quốc không bị tai họa như nhiều người
lo sợ. Việc đồng Nguyên vào rổ ngoại tệ chẳng có hậu quả quốc tế gì đáng
kể, khủng hoảng về nợ nần tại Trung Quốc cũng không gây hiệu ứng cho hệ
thống tài chính quốc tế. Cuối cùng thì vẫn là người Tàu xé áo của nhau ở
bên trong mà thôi!
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ chuyên gia kinh té Nguyễn Xuân Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.
Bác Nghĩa ơi, cho hỏi tí. Theo trang này
Trả lờiXóahttps://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_GDP_(nominal)
thì GDP của nước Nhật cho năm 2016 được IMF ước tính vào tháng 10 này là 4730 tỷ USD, so với năm 2015 là 4123 tỷ USD. Tính ra thì GDP nước Nhật tăng trưởng 14,7%. Nước Nhật lâu nay vẫn chìm trong suy thoái, sao năm nay tăng trưởng nhanh vậy, có điều gì bất thường không bác Nghĩa?
Em tính lại đi! Từ 4123 lên 4730 thì làm sao tăng 14,7%?
XóaMà con số GDP của Nhật năm 2015 là của World Bank, số cho năm 2016 là ước lượng của IMF!
Trả lờiXóa4730 : 4123 - 1 = 0.147222896 ~ 14,7%
Trả lờiXóaKhông lẽ giới kinh tế có cách tính khác so với toán học???!!!!
Xin trả lời chung cho các bạn đã nêu câu hỏi về đà tăng trưởng của kinh tế Nhật Bản. Theo thống kê của IMF cho 2015 và 2016 thì năm 2015, GDP của Nhật được ước tính là 4123 tỷ Mỹ kim; cho toàn năm 2016 (chưa kết thúc) thì được IMF dự đoán (dự đoán thôi) vào giữa Quý III là 4730 tỷ, tức là tăng 607 tỷ. So với 4123 tỷ thì quả là có tăng 14,7%, như mọi người đều thấy. Cách tính thống kê kinh tế thì chẳng thể khác toán học, nhưng cách ước lượng hay dự đoán các số phiệu thì không thể chính xác và con số 14,7% quả thật là không đáng tin. Ngày 21 Tháng Chín vừa rồi, Ngân hàng Trung ương Nhật nhắc tới sự kiện ấy và thông báo một nỗ lực kích thích nữa. Tôi sẽ trình bày riêng về vấn đề của kinh tế Nhật trong một kỳ khác và luôn luôn nhắc nhở sự hoài nghi rất cần thiết của chúng ta trước các số liệu kinh tế. Xin cám ơn sự chú ý của mọi người.
Trả lờiXóaThưa bác Nghĩa,
Trả lờiXóaThưa hai bạn ở trên,
Cháu nghĩ thắc mắc của mấy bạn ở trên về GDP chênh lệch của nước Nhật vì không rõ cách tính GDP. Ngoài chuyện đó là tính toán hay dự phóng của 2 cơ quan khác nhau là IMF và World Bank thì nguyên nhân khác biệt do họ tính tổng sản lượng quốc nội trước theo đồng Yen Nhật, sau đó quy đổi theo hối suất chính thức từ Yen Nhật qua Mỹ kim. Vậy vấn đề ở đây là khi hối suất thay đổi thì sản lượng tính bằng Mỹ kim sẽ thay đổi (trong khi sản lượng tính bằng Yen Nhật không tăng hoặc tăng rất chậm (dưới 2%)). Chúng ta đều biết tỉ giá Yen Nhật/USD thay đổi thất thường, Yen tăng mạnh trong năm nay (2016) nên góp phần giải thích tại sao sản lượng Nhật Bản tính theo USD bỗng nhiên tăng mạnh (cần chú ý là vài năm trước, có khi sản lượng của Nhật lên đến gần 6000 tỉ USD).
Cháu xin cảm ơn.
share voi bac Nghia bai viet nay, hi vong sau khi doc bai viet nay, mong bac co mot bai nhan xet ve Su sup do dong dola USD. http://harirandom.tumblr.com/post/55245620813/s%E1%BB%B1-s%E1%BB%A5p-%C4%91%E1%BB%95-c%E1%BB%A7a-%C4%91%E1%BB%93ng-%C4%91%C3%B4-la-l%C3%A0-kh%C3%B4ng-th%E1%BB%83-tr%C3%A1nh-kh%E1%BB%8Fi
Trả lờiXóaBài này lý luận sai trên dữ kiện lạc hậu rồi. Từ đã lâu tôi đã có nhiều bài giải thích vị trí của đồng Mỹ kim và còn tiên đoán là nó sẽ lên giá kể từ 2014. Sẽ có lúc trở lại chuyện này.
Xóa