Nhã Ca - Đại học UC Berkeley Ngày 150225
Những
người Huế từng bị tàn sát Tết Mậu Thân xứng đáng được tưởng niệm.
* Từ trái, Giáo sư Olgar Dror của phân khoa Lịch Sử tại
Đại học Texas A&M University, đồng thời là dịch giả sách “Mourning Headband
for Huế” đang thuyết trình về trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, với hình
ảnh những hầm chôn người tại Huế xuất hiện trên màn hình. Trên bàn thuyết trình
là Giáo sư Peter Zinoman của Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á thuộc Đại học U.C.
Berkeley và nhà văn Nhã Ca, tác giả “Giải Khăn Sô cho Huế tại Huế”. *
Kính chào quí vị,
Hôm nay,
với người Việt chúng tôi, vẫn còn là ngày Tết. Mùng Bảy Tết. Xin chúc tết theo
truyền thống Việt Nam: “Kính chúc tất cả quí vị một năm mới Ất Mùi an lành.”
Và xin
cám ơn UC Berkely. Cám ơnm Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á; Cám ơn Giáo sư
Peter Zinoman và quí vị trong ban tổ chức.
Giáo sư
Olga Dror, nhà nghiên cứu và giảng dạy về văn hoá lịch sử Việt Nam, đã trình
bầy đầy đủ về biến cố Tết Mậu Thân và "Giải Khăn Sô cho Huế." Cám ơn
Olga.
Thưa quí
vị và các bạn,
Là người
viết văn thường viết khi một mình, tôi chỉ quen viết, không quen nói. Sẽ không
bao giờ có thể là diễn giả. Bài nói chuyện này được viết trước. Tôi viết tiếng
Việt và nói bằng "văn viết".
Tiếng Kêu Tết
Mậu Thân
Hình như
mỗi người đều có cuốn lịch riêng của mình, trong nhà hoặc trong đầu. Tôi biết
mỗi tờ lịch có câu chuyện của nó, cả chuyện hôm qua, hôm nay, lẫn ngày mai. Câu
chuyện của từng tờ lịch trong cuốn lịch chung được gọi là lịch sử.
Chiến
tranh Việt Nam là cuộc chiến dài nhất của lịch sử Hoa Kỳ trong thế kỷ 20. Cuộc
chiến ấy có cái bóng dài hơn là chính nó. Đó là cái bóng của trận tổng tấn công
Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968, do phía cộng sản thực hiện. Với những hầm chôn
người và hàng ngàn thường dân Huế bị tàn sát, cái bóng oan khiên ấy ngày càng
được nối dài. Dài hơn một trận đánh. Dài hơn cả cuộc chiến. Chưa biết đến bao
giờ mới ngừng.
Là người
sống sót từ trận chiến Tết Mậu Thân, tôi viết "Giải Khăn Sô cho Huế". Đây không phải tiểu thuyết hư cấu. Cũng
chẳng phải văn chương thơ phú. Chỉ là chuyện thật, chuyện chạy bom chạy đạn.
Chuyện mình, chuyện người. Mắt thấy tai nghe. Có sao viết vậy. Chỉ là những
mảnh vỡ của một thành phố tan tác trong cảnh hỗn mang giữa máu lửa, chết chóc.
Giáo sư Olga Dror gọi chúng là những "hình ảnh tức thì" của cuộc sống
bị hủy hoại và vỡ nát. Bà "nghe" thấy tiếng nói từ loại hình ảnh này.
Là một
trí thức Do Thái được sinh ra và lớn lên tại Nga từ thời Sô Viết, bà Olga đã
rời khỏi đất nước này khi Liên Bang Xô Viết còn là một siêu cường. Hơn 10 năm
sau khi chế độ Xô Viết đã sụp đổ, Giáo sư Olga Dror có dịp trở lại nước Nga.
Năm 2012, trong một cuộc hội thảo về kinh nghiệm quan hệ giữa nước Nga và Việt
Nam tổ chức tại Moscow, Olga thuyết trình về đề tài "Trận chiến Tết Mậu
Thân tại Việt Nam và cuốn sách Giải Khăn Sô cho Huế." Nhưng nước Nga hậu Xô
Viết vẫn không hề khác 25 năm trước. Thái độ của cuộc hội thảo với đề tài này
là chỉ có thể đề cập tới "tội lỗi của phía Mỹ" trong trận chiến. Mọi
lý lẽ khác bị dập tắt.
Olga kể
là sau đó, ngay chính trên đất Nga chứ không phải đâu khác, bà thấy mình quyết
tâm hơn bao giờ hết, trong việc phải bảo vệ thứ tiếng nói từng bị vùi dập trong
chiến tranh. Olga còn cho biết nguồn sức mạnh khích lệ bà trong quyết tâm này
là những chuyện mà ông bà nội của bà đã phải chịu đựng trong thời Đệ Nhị Thế
Chiến tại thành phố St. Petersburg.
Năm 2012
là lúc người dịch và người viết "Giải
Khăn Sô cho Huế" bắt đầu liên lạc làm việc với nhau. Nhưng khi sự việc
trên đây xẩy ra, tôi không hề biết gì. Khi đó chúng tôi chưa quen nhau. Tôi
không biết cuốn sách "Giải Khăn Sô
cho Huế" đã cùng đi với Olga tới nước Nga ra sao. Chỉ biết Olga Dror
là vị học giả uyên bác, người viết về Bà Chúa Liễu Hạnh của Việt Nam, một công
trình nghiên cứu mà chúng tôi khâm phục. Ba năm liên lạc thư từ cùng làm việc,
đã coi nhau là bạn, nhưng chỉ khi công việc đã xong, cầm cuốn sách anh ngữ trên
tay, đọc bài của Olga, tôi mới biết chuyện này.
Điều mà
Giáo sư Olga tìm thấy trong cuốn sách Giải
Khăn Sô cho Huế, là "tiếng nói của người dân trong chiến tranh."
Bà nói cuốn sách là cái nhìn cuộc chiến không qua cặp mắt của người lính hay
chính trị gia, bình luận gia, mà qua cặp mắt của người dân không phe phái. Nó
mô tả kinh nghiệm của những người dân bình thường.
Sau khi
liệt kê đầy đủ và đối chiếu với các loại quan điểm khác nhau về trận chiến đã
được nói lên từ nhiều phía, nhiều nơi, nhiều nước, Olga nhấn mạnh
"Mourning Headband for Huế" là quan điểm, là tiếng nói đích thực của
người dân miền Nam Việt Nam. Với nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam, tiếng nói
này hoàn toàn bị cấm kỵ. Tác giả từng bị bắt bỏ tù, cuốn sách từng bị đóng đinh
và cho tới nay vẫn tiếp tục cấm đoán. Ngay tại Hoa Kỳ, tiếng nói của người dân
miền Nam cũng chưa từng được lắng nghe. Sách viết về chiến tranh Việt Nam hầu
hết đều phát xuất từ miền Bắc Cộng Sản.
Olga cũng
nói đọc Nhã Ca trong Giải Khăn Sô cho Huế,
có khi người ta nghe tiếng la thất thanh, tiếng kêu gào tới mức không còn ra
tiếng nữa. Tôi biết đó là tiếng kêu từ Huế Tết Mậu Thân. Tiếng kêu của người
dân miền Nam trong cuộc chiến.
Hôm nay,
lần đầu tiên. tiếng kêu ấy được mang đến U.C. Bekerley.
Nhờ buổi
họp mặt này, hai chị em chúng tôi được gặp nhau lần đầu. Cuốn sách chúng ta có
hôm nay không chỉ là bản dịch. Phần chính của sách là công trình nghiên cứu
nghiêm túc của Giáo sư Olga về tiếng nói của người dân trong trận tấn công
1968. Giải Khăn Sô cho Huế và Nhã Ca,
với hàng trăm chú giải chi tiết kèm theo bản Anh ngữ do Olga thực hiện, chỉ còn
là đề tài của công trình nghiên cứu.
Tha lỗi
cho tôi, Olga.
Tôi đã
đẩy sang vai bạn phần lớn gánh nặng.
Bạn đã
lãnh dùm việc nhìn lại toàn bộ trận chiến Tết Mậu Thân tại Huế. Bạn cũng đã
giới thiệu quá đầy đủ về cuốn sách, tác giả và tác phẩm. Phần tôi, chỉ xin góp
thêm chuyện bên lề, lan man không thứ tự. Bắt đầu bằng...
Ký
ức một thời về chiến tranh, khủng bố
Tôi ra đời cùng lúc với cuộc Đại Chiến Thế Giới lần thứ hai. Huế thời đó còn là
kinh đô của các ông vua triều Nguyễn, nhưng cả nước đã trở thành thuộc địa của
Pháp.
Năm 1937,
quân Nhật tiến chiếm nước Trung Hoa rồi tràn vào Việt Nam kéo theo bom đạn của
thế chiến.
Từ thủa
còn bé thơ, hai ba tuổi, tôi đã biết nếm mùi chiến tranh, bom đạn, nhà cửa bị
đốt cháy, cả nhà phải chạy loạn, đi tản cư trên những chiếc ghe, người lớn chèo
trối chết, thuận hoặc ngược dòng sông để lánh nạn.
Năm 5, 6
tuổi, có lần theo lũ trẻ chơi đùa trên sân đình làng quê, thấy một bãi máu
nhuộm đỏ từ gốc cây sung, bọn trẻ chạy theo, lên thềm đình. Xác một người đàn
ông bị cưa ra làm 3 khúc. Đầu treo trên cây, thân nằm giữa sân và tay chân sắp
trên thềm đình. Người bị giết là một thợ rèn, hiền lành. Việt Minh giết.
Năm tôi 9
tuổi. Tại Huế, Việt Minh cướp chính quyền, vua Bảo Đại thoái vị, con đường Nam
Giao của Huế, nơi có nhiều vườn chùa êm ả bỗng dấy lên nhiều cảnh kinh hoàng.
Lúc đó, tôi học ở một trường tiểu học tên là trường Nam Giao. Sáng sớm, mấy bạn
trong xóm rủ nhau đi học, bọn con nít chúng tôi thường kinh hoàng la hét, khi
thấy một cái đầu bị cắt đứt lìa từ cổ để trong một cái rổ tre với một miểng
giấy ghi của Việt Minh lên án Việt gian. Có khi đầu lâu hay thân người, hay
cánh tay, đùi chân đặt trên cái rá, cái thúng. Có người tứ chi bị cắt rời, thân
bỏ vào bao bố, đầu để ra ngoài, hai con mắt mở trừng trừng, miệng còn dính máu
đông, rất hãi hùng.
Nhưng
rồi... có một lần, bạn tôi không la, không hét, không xô đẩy. Mà cũng như thấy
xung quanh không hề có ai. Cũng không nhấc tay, dợm chân. Bạn đứng sững. Tuy
còn là một đứa nhỏ, nhưng tôi biết "đứng như trời trồng" là lúc bạn
đứng đó. Hai cái đầu được bày trên hai cái nón lá chính là ba và mẹ của bạn.
Bạn ra sao lúc đó? Bạn cứ đứng vậy. Hai mắt bạn cũng trắng dã, trợn trừng như
bốn con mắt không thể nhắm của ba mẹ bạn.
Tôi cũng
đứng như vậy. Không nhấc nổi tay chân. Không mở miệng. Sau đó, người ta xua
đuổi bọn con nít đi. Tôi lạc mất bạn.
Và rồi,
Tết Mậu Thân 1968, chuyện tàn sát tập thể bằng cách chôn sống đã diễn ra tại
Huế. Hàng ngàn dân Huế bị chôn ở Thành Nội, ở Gia Hội, ở Bãi Dâu, ở Phú Thứ, ở
khe Đá Mài... Không chỉ trong núi trong rừng, nơi họ bị chôn còn là đất chùa,
đất nhà thờ, đất trường học, và ngay tại vườn nhà.
Trong số
những người bị chôn có chị Tâm Tuý, cô bạn trường Đồng Khánh của tôi. Khi xác
được đào lên, thấy tóc mọc dài hơn, móng tay mọc dài hơn. Bạn tôi bị chôn sống
khi còn đầy sức sống, như nhiều nạn nhân khác.
Trong
cuộc hưu chiến đêm giao thừa mùng một tháng Giêng Tết Mậu Thân, nhằm ngày 29
tháng Giêng 1968, các đơn vị cộng quân - gồm cả quân chính qui Bắc Việt và dân
quân địa phương - lặng lẽ tiến vào Huế, kiểm soát được khu Gia Hội trong 20
ngày. Chỉ trong thời gian ngắn ngủi này, có tới 473 người Huế bị chôn sống.
Tiếng kêu
Tết Mậu Thân từ "Giải Khăn Sô cho
Huế" mới chỉ là những ghi nhận đầu tiên. Còn hàng ngàn tiếng kêu khác
bao năm qua vẫn liên tục cất lên, ngay trên đất Hoa Kỳ. Xin kể một trường hợp
mà chính tôi biết rõ: Ông Võ Trang, 56 tuổi, cư dân San Diego, một kỹ sư điện
đang làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại đây, hồi tưởng việc bố của ông được
mời đi "họp" chỉ 2 ngày trước khi quân đội quốc gia tái chiếm thành
phố Huế. Ngày ấy, ông còn là một thiếu niên 15 tuổi. Sau đây là đoạn trích do
ông Võ Trang viết:
"Trong
khi tôi đang ngồi cạo chiếc ghế xích đu cũ để sơn lại thì bỗng có người vỗ vai
tôi và hỏi nhẹ "Em ơi! Có ba ở nhà không?" Tôi bàng hoàng quay lại.
Hai người, một dân quân áo bà ba quần cụt, một chính quy với dép râu và quân
phục, nón cối màu vàng. Tôi hỏi lại họ muốn kiếm ai thì họ nói tên ba tôi rõ
ràng. Chị giúp việc mà gia đình tôi vừa thuê vài tháng trước đã mở cửa sau cho
họ. Tôi vào kêu ba tôi trong hầm giã chiến. Hết đường chạy rồi! Phòng chỉ có
một cửa ra vào thì họ đã đứng chận. Ba tôi mặt tái xanh và không nói gì nữa.
Trong hầm còn có một người em trai của me tôi, là một cảnh sát viên, đã khuyên
ba tôi nên đi ra để họ khỏi xông vào bắt thêm những người họ không dự định. Me
tôi đưa thêm chiếc áo len cho cho ba tôi mặc vào. Người anh thứ hai của tôi
chạy theo xin đi thế nhưng họ không cho. Hôm đó là ngày 19 âm lịch tháng Giêng
năm Mậu-Thân...
"Khoảng
hơn một tuần sau, các hầm chôn người tập thể nằm phía sân sau của trường Tiểu
Học Gia Hội được phát hiện. Xác người khi được khai quật, tuy chưa bị rữa nhưng
đã sưng phồng lên và bốc mùi.
"Cái
thây người được kéo lên để nằm ngửa người trên một u đất, miệng há hốc, mặt đen
xám và dính đầy đất, hình ảnh mà cả cuộc đời tôi không bao giờ quên. Đó là ba
của tôi. Những chứng cớ không thể chối cãi. Chiếc áo có vẽ 4 cái đầu của ban
nhạc "The Beatles" bên ngực trái, là chiếc áo độc nhất vô nhị của anh
tôi mà ba tôi rất thích. Hai chiếc tất (vớ) thêu lủng lỗ mà anh em chúng tôi
đều biết được chia đều vào 2 túi quần. Rõ ràng là dấu hiệu ba tôi để lại cho
gia đình nhận diện. Tôi không biết ba tôi đã vật vã như thế nào vào giờ phút đó
nhưng me tôi và các anh em tôi thì vẫn đau đớn cho đến bây giờ...".
Võ Trang
cho biết trong số người bị chôn có cả cô gái 19 tuổi ở cách nhà ông 2 căn.
Người anh là một cảnh sát viên vắng mặt nhưng có tên trong danh sách được mời,
cô em thay thế anh "đi họp"!
Và kể
thêm: "Thảm sát tập thể như thế này cũng đã xảy ra ở Sịa, vùng quê gần
Huế, vào năm 1947. trước khi rút lui vì nghe tin quân Pháp sắp trở lại, cộng
sản kêu gọi dân chúng đi đào hầm chống Pháp. Những hầm này thật ra chính là
những hầm chôn tập thể chỉ trong vài ngày sau đó. Theo lời chú tôi kể lại họ đi
bắt người cả ban ngày và ban đêm. Ông Cố Nội của tôi, đã 70 tuổi cũng đã bị bắt
đi vào ngày 17 tháng 2 nhằm ngày 20 Tết Âm Lịch. Lúc đầu người ta phát giác xác
anh TH., một nhân vật có võ được biết trong làng, chết bên vệ đường với nhiều
vết chém, đứt cả bàn tay. Rồi lần theo vết máu người ta tìm đến những hầm chôn
người tập thể trong đó có cả Ông Cố Nội của tôi và em của Ông. Những vết cắt
cho thấy họ bị chặt đầu bằng mã tấu! (1).
Và Đêm
Huế 1970.
Hai năm sau trận chiến Mậu Thân, họp mặt ra mắt sách "Giải Khăn
Sô cho Huế" lần đầu tại Sàigòn, với sự hiện diện của Hoà thượng Thích Trí
Thủ, vị đại sư huynh của các nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam. Sau đó toàn bộ số
thu từ cuốn sách được mang về trao tặng trường trung học Đồng Khánh và Đại học
Y Khoa Huế. Chuyến đi Huế lần này có sự tham dự của Linh mục Cao văn Luận, viện
trưởng sáng lập Đại học Huế, nhà văn Doãn Quốc Sỹ, các nhạc sĩ Phạm Duy, Cung
Tiến.
Tại Huế
vào thời điểm này, dân chúng ngày ngày đang lùng kiếm đào bới các hầm chôn
người do cộng quân để lại, thành phố đổ nát đầy tang tóc. Đêm Huế 1970 cho tôi
những hình ảnh nhớ đời.
Một buổi
chiều, với chiếc xe Volkswagen, chúng tôi sang Thành Nội. Đây là chiếc xe của
ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick để lại trong chung cư y khoa sau khi bị
cộng quân bắt đi. Ông bà cùng hai vị bác sĩ người Đức khác là Raimund Discher
và Bác Sĩ Altekoester là bốn bác sĩ người Đức sang giúp trường Y khoa Huế từ
1960. Cả bốn vị đều đã bị cộng quân bắt đi xử bắn.
Tại Thành
Nội, chúng tôi có buổi ăn tối với các bạn ở trường Âm Nhạc Huế. Đây là nơi trú
đóng của cộng quân trong cuộc giao chiến. Trong khu vườn nhà trường, có con
mương dẫn nước chạy qua. Lúc đứng ở sân, người vợ của anh bạn giám đốc trường
nhạc chỉ tay vào cái mương, nói là sau khi Việt Cộng đã rút chạy, anh chị trở
lại đây, thấy xác binh sĩ Việt Cộng nằm chết xếp lớp dày đặc trong con mương.
Người
chết không còn oán thù, có một mâm cơm, một bát nhang bày ở đó.
Trên
đường lái xe về, trong đêm Huế thê lương đâu đâu cũng thấy bầy bàn thờ nhang
khói, chúng tôi có ngừng lại thăm một ngôi nhà có người cha người anh đã bị
cộng sản chôn sống tại Gia Hội. Con em trong nhà mang áo xô gai, thay nhau cầm
bó đuốc chạy quanh gốc cây trước nhà. Theo niềm tin của dân gian, những hồn
chết oan không biết đường về nhà. Phải đốt đuốc hướng dẫn cho linh hồn lưu lạc
biết đường mà trở về.
Có biết
bao hồn oan trong trận chiến Huế Mậu Thân đang chờ ánh đuốc, cả hồn oan của
những chiến binh miền Bắc bỏ xác trong mương nước thành nội.
Năm Ất
Dậu, 1885, Pháp đã đưa quân vào Huế uy hiếp triều đình. Đêm 23 tháng 5 âm lịch,
30,000 quân Nam tấn công căn cứ Pháp tại Mang Cá nhưng bị đánh bại. Kinh thành
thất thủ, đại thần Tôn Thất Thuyết phải mang Vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị mở
phòng trào Cần Vương. Trong trận chiến này, hơn 1500 quân dân Huế bị tàn sát.
Ngay từ năm Mậu Tuất tiếp theo, Huế lập Đàn Tưởng Niệm, xây thêm miếu Âm Hồn
trong Thành Nội, hàng năm, đúng ngày giỗ, cả thành phố đều đốt nhang, làm lễ.
Thực dân Pháp không cấm việc dân Huế tưởng niệm người chết. Cộng sản thì khác.
Huế Mậu
Thân, số nạn nhân bị tàn sát nhiều gấp 5 lần, nhưng từ sau 1975, mọi đài tưởng
niệm đều bị phá bỏ, dân chúng thì bị công an đến từng nhà truyền lệnh cấm tụ
tập làm giỗ.
Hình ảnh bập bùng của những ngọn đuốc đêm Huế ấy bao năm vẫn chập chờn trong
đầu tôi.
Từ trái: Giáo sư Peter Zinoman giới thiệu tác giả Nhã Ca và dịch
giả Olga Dror
Thưa quí
vị,
Năm Ất
Mùi 2015, bốn mươi năm sau chiến tranh Việt Nam cũng là dịp kỷ niệm 20 năm bang
giao Việt Mỹ.
Lịch sử
có ghi là hai năm trước khi Nội chiến Nam Bắc Mỹ kết thúc, tổng thống Hoa Kỳ Abraham
Lincoln đã chỉ định "một ngày tủi nhục quốc gia" cho nước Mỹ. Trong
ngày này ông đã kêu gọi cả nước nhận chung "tội lỗi của chúng ta" và
cùng nhau xưng tội, cầu nguyện sự tha thứ.
"Ngày
tủi nhục quốc gia" được công bố tại Mỹ là ngày 30 tháng 3 năm 1863. Đã hơn
150 năm. Nội chiến Hoa Kỳ chấm dứt vào vào tháng Tư năm 1865. Liên Bang nước
Mỹ, với sự tôn trọng dành cho phía miền Nam - lá cờ miền Nam vẫn được treo,
binh sĩ miền Nam vẫn giữ súng cá nhân, liệt sĩ Nam Bắc chung nghĩa trang, cả
nước không có một cuộc diễn binh hay lễ hội mừng chiến thắng. Từ đó mà có được
nước Mỹ ngày nay.
Sau Tết
Ất Mùi, sang năm sẽ là Tết Bính Thân. Sắp thêm một năm Thân.
Chiến
tranh Việt Nam, anh em một nhà bị đẩy tới chỗ giết nhau, thù hận nhau. Tháng Tư
1975 của Việt Nam - sau tháng Tư của nước Mỹ 110 năm - thêm cả triệu người miền
Nam bị thủ tiêu, tù đày, chìm dưới đáy biển. Vậy mà cho tới nay, tại Việt Nam
cũng như tại nhiều nơi, trong nhiều cái đầu, vẫn chưa thấy nghĩ lại.
Trong bài
"Tựa Nhỏ: Viết Để Chịu Tội"
mở đầu sách Giải Khăn Sô Cho Huế, tôi có viết rằng chính thế hệ chúng ta, thế
hệ của tôi phải chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát Tết Mậu Thân cũng như cả cuộc
nội chiến. Tầm nhìn thế hệ không phải phân biệt tả hữu, nam bắc. Sau đó là lời
mời gọi cùng đứng trước bàn thờ ngày giỗ.
Khi viết
lời tựa nhỏ cho bản in lần đầu "Giải Khăn Sô Cho Huế" vào năm 1969,
tôi viết với niềm tin vào tương lai của Huế, tương lai Việt Nam.
Vào năm
2008, khi viết thêm ít dòng cho bản Việt ngữ của cuốn sách được tái bản ở Mỹ,
tôi viết "Sẽ tới lúc phải có một bàn thờ chung, ngày giỗ chung tại quê
hương, nơi từng biết thế nào là sự ăn ở tử tế, như từng biết thế nào là văn
hóa, lịch sử."
Và hôm
nay, tại đây, vẫn với nguyên vẹn niềm tin xưa, tôi tiếp tục chờ đợi.
Những
người Huế từng bị tàn sát Tết Mậu Thân xứng đáng được tưởng niệm.
Các thế hệ tương lai tại Việt Nam xứng đáng được nghe, được nghĩ, được nói điều chân thật, được hưởng một đất nước lành lặn, sạch sẽ. Ngày ấy sẽ tới.
Kính chào và cám ơn quí vị.
Nhã Ca
(1) Bài “Xuân Này Nhớ Xuân Xưa” của tác giả Võ
Trang, sách “Viết Về Nước Mỹ” 2009.
Bài trích từ Việt Báo số ra ngày 150228:
http://vietbao.com/a234271/47-nam-sau-vu-tan-sat-tet-mau-than-giai-khan-so-cho-hue-toi-uc-berkeley