Nguyễn-Xuân
Nghĩa - Việt Tribune Xuân Ất Mùi
Những
cái đinh nhức nhối trong ký ức tập thể
* Thời gian hình tròn *
Trí
nhớ con người vốn có hạn nên ta thường nghĩ là một biến cố gần mới có ảnh hưởng
quan trọng hơn nhiều chuyện xảy ra ở xa hơn trong lịch sử. Nếu vượt qua trở ngại
ấy mà nhìn về quá khứ thì người Việt ta lại có hai... loại đinh để ghim những
thời điểm nên nhắc nhở: đinh ta và đinh tây! Đinh ta là mình theo âm lịch và đinh
tây là dùng dương lịch. Thí dụ như những chuyện năm Mùi, hay những dấu mốc tròn
của ký ức, 10 năm, 50 năm, hay cả trăm năm, tính theo lịch tây....
Bài
này được viết theo tinh thần đó, với những nhận xét mang tính chất điểm xuyết có
phần u uẩn - và lạc quan.
***
Trước
hết, bước vào năm Ất Mùi, chúng ta nên nhớ về năm Quý Mùi 1883 - cách nay 132 năm.
Hỏi
người ngoại quốc có hiểu biết thì họ nhớ năm 1883 là khi Karl Marx tạ thế, ở tuổi
65. Sở dĩ nhớ là vì ảnh hưởng của Marx trong thế kỷ 20. Năm 1848, khi Karl Marx
và Friedrich Engels tung ra bản "Tuyên ngôn Cộng sản", chỉ một số rất
ít đã sớm nhìn ra sự thật: hai thanh niên chưa hề lao động một ngày trong đời lại
hùng hồn nhân danh giai cấp lao động kêu gọi lật đổ cái chế độ đã nuôi sống họ!
Về
sau, những người sáng suốt nhìn ra chân tướng của Marx như vậy nghe chừng vẫn còn
ít vì một hiện tượng khác: nhiều thanh niên thuộc gia đình trưởng giả tiếp tục
con đường cực đoan - mà họ gọi là cấp tiến - cũng nhân danh "thợ thuyền"
hay "nhân dân", để đòi làm cách mạng cộng sản. Thế kỷ 20 bị chiến
tranh và loạn lạc liên miên, một phần cũng vì nghịch lý ấy.
Đây
là nghịch lý cũng thấy tại Việt Nam và phần nào giải thích hiện tượng cộng sản
hay "lực lượng thứ ba" và những kẻ đồng hành với cộng sản sau năm
1975 lại bị đảng tru diệt! Vì thế, dù chẳng thể quên được cái mốc 1975, năm Quý
Mùi 1883 rất xa xưa thật ra cũng đáng nhớ!
Huống
hồ, với chúng ta là nạn nhân của Marx và đám hậu duệ cuồng điên, năm Quý Mùi
1883 còn đáng nhớ vì nhiều lẽ khác....
Năm
Ất Mùi 1859, thực dân Pháp nã đạn vào Đà Nẵng và sau 24 năm xâm lược từ Nam ra
Bắc, họ hoàn tất việc chinh phục Việt Nam với "Hòa ước Harmand" hay
Hiệp ước Quý Mùi 1883. Pháp gặt hái thành quả mang tính chất quyết định với 27 điều
khoản áp đặt quyền cai trị trên đất nước Việt Nam được chia làm ba miền.
Sau
khi khuất phục triều Mãn Thanh với Hiệp ước Thiên Tân năm 1883, Pháp quay lại đóng
thêm cái chốt với Hiệp ước Giáp Thân 1884, hay Hòa ước Patenôtre, từ tên của
Jules Patenôtre des Noyers, một học giả và nhà ngoại giao Pháp. Nhắc lại cho gọn:
Việt Nam thật sự mất chủ quyền vào tay Thực dân Pháp từ năm Quý Mùi 1883. Một
chuyện năm Mùi chẳng nên quên!
Cũng
năm Quý Mùi 1883 đó, một nhân vật ra đời mà không ngờ là 62 năm sau sẽ là Thủ
tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Đó là học giả Trần Trọng Kim với một
Nội các có nhiều nhân tài trong một thời gian ngắn ngủi đã cố dựng nền móng cho
quốc gia.
Trong
cái trớn của Đệ nhị Thế chiến, kết thúc tại Á châu khi Nhật Bản bị "Đồng
Minh" đánh bại, Việt Nam đã giành lại độc lập vào năm 1945, cách nay đúng
70 năm, vì kết thúc luôn hậu quả của Hiệp ước Quý Mùi 1883. Đây là cái đinh chọc
thủng huyền thoại kia là vụ Việt Minh cướp chính quyền rồi ngụy danh thành
"Cách mạng Tháng Tám" năm 1945.
Đời
sau mà quên chuỗi sự kiện dồn dập vào năm 1945 thì tiếp tục "nhận giặc làm
cha" và không nhìn ra nguyên ủy sâu xa của biến cố 1975. Giữa hai thời điểm
ấy, ta cũng chẳng thể quên rằng hai nền Cộng Hoà tại miền Nam đều xuất hiện vào
năm Mùi: Ất Mùi 1955 và Đinh Mùi 1967.
Trong
cuốn biên khảo mới nhất về "Trật tự Thế giới", World Order, xuất bản vào Tháng Chín năm 2014, Henry Kissinger có
biện bạch về nhiều lý do thất bại tại Việt Nam năm 1975. Một lý do được viện dẫn
là vì Miền Nam (Việt Nam Cộng Hoà) chưa từng hiện hữu như một quốc gia trong lịch
sử. Trí nhớ thiên lệch của ông ta đã tự ý đục bỏ các thời điểm 1945 và 1955 và
việc Hoa Kỳ cùng thế giới đã công nhận Việt Nam Cộng Hoà.
Chúng
ta nên trám lại hai lỗ hổng đó trong ký ức của hậu thế.
Cũng
trong công trình biên khảo về chiến lược "cân bằng lực lượng",
Kissinger không ngớt lời ca tụng Tổng thống John F. Kennedy, chê bai Tổng thống
Lyndon B. Johnson và cho là cái "trật tự lớn" đã nghiêng đổ khi
Kennedy bị ám sát vào năm 1963. Riêng với Việt Nam, sự thật có khi lại khác cũng
từ năm 1963, khi nền Đệ nhất Cộng hoà sụp đổ với cái chết của Tổng thống Ngô Đình
Diệm, trước khi Kennedy bị ám sát đúng ba tuần.
Ta
nên đọc cuốn sách của Patrick J. Sloyan vừa xuất bản tuần qua "The Politics of Deceptions: JFK Secret
Decisions on Vietnam, Civil Rights and Cuba" – Chính sách Lừa dối: Những
quyết định bí mật của JFK về Việt Nam, Dân quyền và Cuba. Tác giả là một nhà báo kỳ
cựu, từng được giải Pulitzer, và bỏ nhiều năm nghiên cứu các tài liệu mới được
giải mật, kể cả băng ghi âm lén của Tổng thống Kennedy để phơi bày sự tráo trở của Kenney trong nhiều hồ sơ lớn
như Cuba, phong trào dân quyền của dân da đen và nhất là việc Kennedy trực tiếp quyết định về
số phận của Ngô Đình Diệm, rồi đổ. lỗi cho thuộc cấp.
Kết hợp chuyện ấy với nhận xét của Kissinger, có khi
ta hiểu ra đối sách của Hoa Kỳ với Việt Nam, ngày xưa và ngày nay. Đấy
là một cách khác để nhớ lại biến cố 1975, hay chuyện Việt Mỹ tái bang giao năm
1995 - một cái đinh khác – hoặc những đòn phép chính trị sắp tới giữa Cuba và
Hoa Kỳ. Đấy là thời sự!
Đã
nhìn lên lịch sử và nói tới Ất Mùi thì chẳng nên quên Ất Mùi 1895.
Năm
đó, phong trào Cần Vương thất bại cùng cái chết của quan Đình nguyên Phan Đình
Phùng. Đỗ Tiến sĩ, ra làm quan rồi từ quan tìm đường cứu nước và bị gán tội là
làm giặc, Phan Đình Phùng là bậc anh hùng đáng kính. Cái chết của ông cũng khép
lại đường lối đấu tranh theo chế độ quân chủ và mở ra hướng khác. Mở ra thế giới
bên ngoài....
Nhắc
đến Ất Mùi 1895 thì đấy cũng là dấu mốc hiện đại. Năm đó, Nhật Bản khuất phục
nhà Thanh sau trận thủy chiến năm Giáp Ngọ 1894! Chuyện rất hiện đại vì mâu thuẫn
Hoa-Nhật đang tái diễn ngoài Đông Hải....
Suốt
năm qua, cả thế giới nhắc đến Đệ nhất Thế chiến bùng nổ từ những biến cố tưởng là
nhỏ nhặt và rời rạc vào năm 1914. Kết luận chung của nhiều học giả là những biến
cố ấy xuất phát từ nhiều chuyển dịch lớn lao và chậm rãi của các đại cường. Hiện
tượng một cường quốc mới nổi lại thách đố vị trí của một đại cường đương trị đã
gây mầm bất ổn cho nên một biến cố nhỏ lại xé ra chuyện to. Người ta kết luận
như vậy để cảnh báo: khu vực Á châu đang có sự chuyển dịch tương tự, và cường
quốc mới nổi có thể châm ngòi cho đại chiến chính là Trung Quốc.
Khi
ấy, Nhật Bản đứng ở đâu, sẽ làm gì? Và vì sao ngân sách quốc phòng của Nhật cho
tài khóa 2015 lại đột ngột gia tăng? Hãy nhớ lại chuyện năm Mùi 1895 thì sẽ hiểu
ra.
Chúng
ta đều nhớ đến 1975 và những gì xảy ra sau đó, nhất là sự thành công của cộng đồng
người Việt trong các quốc gia đã đón nhận dân tỵ nạn và thuyền nhân. Trong một
môi trường có tự do, người Việt tất nhiên là thành đạt chẳng kém gì các sắc dân
khác trong rất nhiều lãnh vực.
Duy
tại Hoa Kỳ, ta gặp hoàn cảnh trớ trêu. Người Việt thành nạn dân vào Mỹ vì thất
bại của Mỹ tại Việt Nam. Trong xã hội Hoa Kỳ, cộng đồng người Việt là một nhắc
nhở ê chề về thất bại ấy. Rồi sự thành công của dân tỵ nạn lại làm cho dư luận
Mỹ nhìn ra giá trị của miền Nam, là nơi xuất phát làn sóng di dân mà cũng là nơi
bị phỉ báng nhiều nhất.
Hãy
nhớ lại phương cách truyền thông Hoa Kỳ viết về Sàigon và Hà Nội ngày xưa, ta
thấy ra sự thiên lệch. Cộng đồng người Việt có góp phần điều chỉnh sự lệch lạc ấy.
Đấy là một thành tựu vô hình mà đáng kể, nên trong một số Xuân về ký ức, chúng
ta cần nhắc lại và nhấn mạnh.
Chính
nỗ lực đấu tranh của người Việt tại Mỹ - không chỉ qua biểu tình – dần dần làm
sáng ra nhiều điều. Trước hết là về cuộc chiến của Hoa Kỳ tại Việt Nam, một cuộc
chiến có chính nghĩa dù tiến hành sai. Thứ hai là về miền Nam, hay hai nền Cộng
hoà xuất hiện vào hai năm Mùi. Miền Nam trong chiến tranh và dưới hai chế độ chưa
toàn hảo thật ra lại có những thành tựu đáng kể, thuộc loại "vượt thời
gian".
Trong
cộng đồng các cựu chiến binh Mỹ đã tham chiến tại Việt Nam, nhiều người không
quên được chiến binh Việt Nam. Họ tiếp xúc và ra sức yểm trợ các chiến hữu cũ của
Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, nay còn lập hội thiện để quyên tiền và đem về trao
tận tay cho các thương phế binh của miền Nam. Một thí dụ là sáng hội "Vietnam Healing Foundation – Helping the
Forgotten" (thevhf.org) bắt đầu thành hình từ 10 năm về trước. Một cái
mốc dễ nhớ.
Nhiều
cựu chiến binh cũng đặt lại câu hỏi về lý do và kết quả của việc Mỹ tham chiến.
Một số không ít trong thành phần ấy trở thành doanh gia cự phú hoặc giáo sư đại
học mà cùng nhìn lại lịch sử và chấn chỉnh sự thật về cuộc chiến và về miền
Nam. Họ chấn chỉnh từ sách giáo khoa trở đi để các thế hệ về sau của nước Mỹ không
còn hiểu lầm về quá khứ. Nhiều đại học Hoa Kỳ đã kết hợp những đóng góp ấy vào
chương trình giảng dạy cho sinh viên Mỹ.
Ngày
nay, chúng ta nhìn ra kết quả của nỗ lực xét lại một cách rộng lớn, với một
phong trào quỵ tụ nhiều học giả Hoa Kỳ từng là cựu chiến binh tại Việt Nam. Tồ
chức "Vietnam Veterans for Factual
History" là một thí dụ (www.vvfh.org). Đây là một nguồn tham khảo
cho những ai muốn vượt qua màn khói của huyền thoại để tìm ra sự thật về một cuộc
chiến thảm khốc cho Việt Nam và thảm nhục cho nước Mỹ. Nhiều cựu chiến binh và
học giả Việt Nam có đóng góp cho công trình khôi phục sự thật này.
Ngoài
ra, có một hiện tượng đáng chú ý khác trong trào lưu tái thẩm định sự thật là
nhiều người xưa kia có cảm tình với chế độ Hà Nội hoặc thuộc về phe tả mà khách
quan nhìn lại chuyện cũ và trình bày sự thể Việt Nam một cách trung thực hơn.
Cũng
trong chiều hướng đó mà nhắc tới 1975 thì không thể quên một thế hệ mới của nhiều
sử gia và tác giả người Mỹ gốc Việt. Là con cháu của các cựu chiến binh miền
Nam, họ nghiên cứu và viết sách về cuộc chiến và về cả nhiều bí ẩn xảo trá của
Hà Nội.
Vài
thí dụ cần nhắc ở đây là Giáo sư Lien-Hang Nguyen, Tiến sĩ tại Yale, đang giảng
dạy trong Phân khoa Lịch sử của Đại học Kentucky, tác giả của nhiều biên khảo và
cuốn sách đã đoạt bốn giải thưởng "Hanoi's War: An International
History of the War for Peace in Vietnam". Hoặc Lan Cao, Tiến sĩ Luật khoa và Giáo sư tại
nhiều Đại học Mỹ, tác giả của hai cuốn tiểu thuyết Anh ngữ nổi tiếng về Việt
Nam, Monkey Bridge và The Lotus and the Storm. Đấy cũng là những thành tựu kín
đáo mà có ảnh hưởng của cộng đồng người Việt tại Mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét