Hùng Tâm - Ngày 150820
"Hồ Sơ Người-Việt"
Một chiều hướng đáng ngại của kinh tế toàn cầu
* Thị trường thương phẩm *
Kinh tế thế giới đang gặp một lúc ba hiện tượng song hành mà
có hiệu ứng tương hằng, là tác động vào nhau. Đó là nạn thương phẩm sụt giá, rủi
ro giảm phát và hàng loạt biện pháp phá giá so với Mỹ kim của Hoa Kỳ. Hồ Sơ Người-Việt
sẽ tìm hiểu riêng về hiện tượng thứ nhất, một chiều hướng đáng ngại mà cũng là
chỉ dấu tiên báo nhiều chuyện đáng ngại hơn.
Trước khi đi vào chủ đề, xin có vài hàng về định nghĩa.
Một Vài Định Nghĩa
“Thương phẩm” hay commodities,
là các mặt hàng đệ nhất đẳng dùng trong tiến trình chế biến ra sản phẩm hoàn tất.
(Hồ Sơ Người-Việt xin dùng từ của chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa, xuất hiện
trong Nam trước 1975, không dùng chữ “hàng hóa” thiếu chính xác). Đấy là các loại
nguyên liệu thô rời; là nhiên liệu (nhiên là đốt) như dầu thô, khí đốt, than đá;
là vật liệu chế biến và xây cất; là kim loại cho kỹ nghệ như đồng thau, sắt
thép và cả vàng, bạc, bạch kim; là nông sản và lương thực như gạo, mì, ngô bắp đậu
nành và cả nước cam hay dầu ăn gốc thực vật, v.v…
Trong tiến trình sản xuất, thương phẩm là một nhập lượng (input) không thể thiếu và số lượng được
tiêu thụ có thể cho chúng ta biết triển vọng sau này về xuất lượng (output) hay sản lượng. Vì là nguyên
nhiên vật liệu cần thiết cho sản xuất, thị trường thương phẩm được giới đầu tư
chú ý. Họ giữ vị trí trung gian là mua vào và bán ra không để sản xuất mà để kiếm
lời - hoặc bị lỗ - ở giữa nhà sản xuất và các doanh nghiệp tiêu thụ. Thị trường
thương phẩm giao dịch rất phức tạp và chuyên biệt, với đặc tính là lời to mà lỗ
nặng, nhưng cũng là chỉ dấu tiên báo về tình hình sản xuất hay ế ẩm. Vì đa số
thương phẩm ngày nay được yết giá bằng Mỹ kim, là trao đổi và thanh toán bằng
đô la Mỹ, nên hối suất Mỹ kim cũng ảnh hưởng đến giá thương phẩm lên hay xuống.
“Giảm phát” hay deflation
là hiện tượng ngược với lạm phát, inflation.
Đó là khi vật giá không gia tăng mà còn giảm – nhưng vẫn bán không được. Hiểu
nôm na là hàng họ ế ẩm chẳng ai mua vì ít nhu cầu sử dụng cho sản xuất. Kinh tế
bị giảm phát có nghĩa là mức sản xuất suy sụp và thất nghiệp tăng. Căn cứ trên
lịch sử, giới nghiên cứu về kinh tế thường sợ giảm phát hơn lạm phát vì khó trị
và hay dẫn tới khủng hoảng lan rộng. Trong hoàn cảnh hiện nay, người ta nói đến
nguy cơ giảm phát từ Trung Quốc, hoặc “Trung Quốc đang xuất cảng giảm phát ra
ngoài”. Ta sẽ tìm hiểu vì sao.
Phá giá đồng bạc hay devaluation
là việc một quốc gia chủ động làm đồng nội tệ của mình hạ giá so với một hay
nhiều ngoại tệ khác. Khi đồng bạc được trao đổi tự do điều ấy có nghĩa là nhà
nước không định ra hối suất chính thức và bắt buộc. Nếu không có chế độ hối
đoái tự do, là dân chúng và doanh nghiệp không được tự do mua bán ngoại tệ, thì
nhà nước có thể phá giá bằng cách điều chỉnh hối suất chính thức, điều Bắc Kinh
vừa làm nhưng phủ nhận.
Trường hợp phổ biến hơn trong luồng giao dịch tương đối tự
do giữa các nước, khi kinh ế bị suy trầm thì chính quyền một quốc gia có thể chủ
động bơm tiền để kích thích sản xuất. Các biện pháp kich thích như hạ lãi suất,
giảm mức dự trữ pháp định của ngân hàng thương mại, hoặc mua vào trái phiếu và
trả ra bằng đồng nội tệ, v.v… đều làm cho tiền nhiều và rẻ hơn. Với hậu quả trực
tiếp là làm giảm giá trị của đồng bạc và gián tiếp là làm hạ hối suất đồng nội
tệ so với các ngoại tệ khác. Vì hậu quả gián tiếp này mà biện pháp bơm tiền, chứ
chưa đụng vào hối suất, cũng có tác dụng “phá giá”.
Thương Phẩm Bị Thương
Hôm Thứ Tư 19 Tháng Tám, các thị trường thế giới đều chấn động
vì việc giá của chất đồng trên thị trường thương phẩm đã lần đầu tiên sụt dưới năm
ngàn đô la một tấn (một metric ton). Đấy là chỉ dấu cảnh báo vì từ hơn 10 ngàn
một tấn vào đầu năm 2011 giá đồng liên tục sút giảm và mất phân nửa. Mà đồng là
loại thương phẩm tiêu biểu vì cần thiết cho mọi ngành chế biến và giá cả lên xuống
do tình hình cung cầu thực tế chứ không do các nước sản xuất hay tiêu thụ cố
tình làm giá như trường hợp dầu thô, một thương phẩm tiêu biểu khác.
Việc một kim loại cần thiết như đồng lại mất giá nặng cho thấy
chiều hướng chung của nhiều loại thương phẩm. Đồng là sản phẩm tiên phong và
tiên báo sự suy sụp của thị trường thương phẩm, tức là tình hình sản xuất trong
tương lai: số cung đang vượt số cầu. Điều ấy có nghĩa là các nhà sản xuất, hay
các quốc gia sản xuất, đều bị thua thiệt với tồn kho ế ẩm. Mà các doanh nghiệp
hay quốc gia tiêu thụ lại chẳng được lợi gì nhiều nhờ giá rẻ vì dù giá có rẻ mà
mua vào để sản xuất thì sẽ bán cho ai?
Từ giá đồng mà nhìn qua các loại thương phẩm khác, người ta
thấy ra chiều hướng tương tự.
Nổi bật nhất là giá dầu thô, đã giảm mạnh từ mùa Hè năm
ngoái, lên được một chút thì tiếp tục giảm vào mùa Hè này. Giá dầu thô bị ảnh
hưởng của các cartels, liên minh làm giá, nhưng các liên minh này, như Tổ chức
các Quốc gia Xuất cảng Dầu thô OPEC, đều không thể cùng phối hợp để điều tiết số
cung cho giá khỏi hạ, trong khi số cầu vẫn giảm. Một yếu tố đặc thù khác là kỹ
nghệ sản xuất của Hoa Kỳ với phương pháp “fracking” đã thường xuyên cải tiến để
chiết đá phiến ra dầu với giá thành rẻ hơn: một thùng dầu bơm thêm (gọi là biên
tế) mà còn tốn ít hơn gia thị trường thì họ còn bơm. Giá biên tế tại nhiều mỏ “fracking”
của Mỹ đã xuống tới 40 đồng một thùng và sẽ còn xuống nữa. Vì vậy, số cung vẫn
tăng.
Ngoài đồng (và các kim loại cho kỹ nghệ như kẽm, thau, thiếc,
chì, thép, v.v…) và nhiên liệu như dầu thô, khí đốt, thì các loại nông sản như
ngũ cốc, hay lương thực là đường sữa, cũng bị mất giá. Thời tiết bất lợi ba năm
về trước khiến ngũ cốc lên giá và kích thích nông gia trồng trọt thêm. Khi mùa
màng tốt đẹp đi cùng sản lượng gia tăng thì giá sụt mạnh, và sẽ còn sụt nữa.
Giá gạo cũng vậy, và đấy là mối nguy cho nông dân Việt Nam.
Trường hợp đường mía cũng đáng ngại không kém cho các nước
nhiệt đới Nam Mỹ, như Brazil. Khi Hoa Kỳ bơm tiền kích thích kinh tế từ năm năm
trước, tiền nhiều và rẻ đã chảy về đây và lập tức nâng cao sản lượng mía đường,
loại sản phẩm thu hoạch nhanh, rồi làm giá sụp đổ từ năm ngoái và làm các nước sản
xuất bị nguy khốn, đồng bạc mất giá. Một thí dụ là vì đường trên thị trường
thương phẩm được tính bằng đô la, Brazil đứng đầu về sản lượng bị khốn đốn và đồng
Real của họ mất giá 1/3 so với đô la Mỹ.
Tổng kết lại, chỉ số tổng hợp các loại thương phẩm (CBR) đã
sụt 57% so với đỉnh cao vào Tháng Bảy năm 2008. So với đà sa sút đầu tiên vào
Tháng Hai năm 2011 thì đã sụt mất 45%. Nếu so với tình hình của 15 năm trước,
khi Trung Quốc mới gia nhập WTO, thì giá thương phẩm còn sụt thêm hơn 30% mới
rơi đúng chỗ!
Nguyên Nhân hay Thủ Phạm
Chúng ta có vài ngoại lệ là khi các nước sản xuất thương phẩm
thuộc về khối công nghiệp hóa, như Hoa Kỳ, Canada, New Zealand là đại gia về
nông sản và lương thực. Hoặc khi nước Úc là nguồn cung cấp quặng sắt hay kim loại.
Cón lại, đa số thương phẩm đều xuất phát từ các quốc gia đang phát triển, từ
Brazil tới Malaysia, hay Indonesia…
Thế giới đã có sự chuyển dịch lớn từ khi Trung Quốc cải cách
vào đầu năm 1979 và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới từ năm 2002. Với đà
tăng trưởng cao của một nước đi sau, Trung Quốc lại là một nước nghèo rất thiếu
nguyên nhiên vật liệu nên phải nhập cảng mạnh. Thị trường xứ này là nơi cuốn
hút thương phẩm của thế giới và khiến các quốc gia khác ráo riết vay tiền để đầu
tư và cung cấp thương phẩm cho Trung Quốc.
Nhưng sau hơn 30 năm tăng trưởng, kinh tế Trung Quốc đang bước
vào khúc quanh nguy hiểm, như nhiều nước Đông Á đi trước. Nguy hiểm vì đà tăng
trưởng thấp hơn, và phải chuyển hướng từ đầu tư qua tiêu thụ để có nền móng
lành mạnh bền vững hơn. Ba năm sau khi đề ra nhu cầu chuyển hướng, lãnh đạo xứ
này không thực hiện được, trong khi tình hình sản xuất tiếp tục sa sút. Đấy là
lý do căn bản của nạn thương phẩm ế ẩm và sụt giá. Bên trong Trung Quốc, hiện tượng
hàng hóa ế ẩm và sụt giá cũng dẫn tới nạn giảm phát. Khi Bắc Kinh hạ giá đồng
Nguyên, người ta vẫn chưa xác định được là vì đồng bạc này được định giá quá
cao, hay vì kinh tế sa sút hơn những gì được thông báo. Cách giải thích phổ biến
nhất vẫn là để xuất cảng cho rẻ hơn. Đấy là hiện tượng xuất cảng nạn giảm phát
qua nước khác.
Nhưng người ta không loại bỏ một nguyên nhân khác. Là việc Mỹ
kim lên giá. Tiền Mỹ tăng giá so với các ngoại tệ khác dẫn tới hậu quả là các
thương phẩm yết giá bằng đô la cũng lên giá.
Khi ấy, một nghịch lý bất thường xảy ra. Các nước sản xuất
và xuất cảng thương phẩm đều bị kẹt vì cần bán nhiều thương phẩm hơn, với giá
cao hơn dù thị trường ế ẩm vì phải thu về đô la cao giá để trang trải các khoản
nợ vay bằng đô la. Mà họ càng sản xuất và bán thương phẩm lại càng làm thương
phẩm sụt giá. Vòng luẩn quẩn ấy dẫn các nước bán thương phẩm vào bế tắc.
Đã vậy, thị trường thương phẩm còn có một thủ phạm khác. Giới
đầu tư vào thương phẩm cố bán tháo lấy tiền về để đầu tư vào việc khác có lời
hơn, kể cả đầu tư vào đô la. Vì vậy, nạn bán tháo thương phẩm càng dễ xảy ra và
đô la càng lên giá. Hai chiều hướng ấy càng làm thương phẩm bị thương. Và nếu
Ngân hàng Trung ương Mỹ nâng lãi suất, dù rất nhẹ (chừng 25 điểm hay 0,25% vào
tháng tới) thì cũng sẽ gây chấn động. Nỗi lo ấy khiến thị trường chứng khoán Hoa
Kỳ sụt giá mạnh vào ngày 19 Tháng Tám.
___
Kết luận ở đây là gì?
Kinh tế thế giới có thể
bị suy trầm và giảm phát.
Trung Quốc sẽ đi vào
chuỗi tàn tạ kéo dài.
Sau đó thế giới sẽ khá
hơn – trừ Trung Quốc. Vì sao như vậy, xin trình bày sau….
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét