Nguyễn-Xuân
Nghĩa - Người Việt Ngày
151228
"Kinh
Tế Cũng Là Chính Trị"
Hiện
Tượng Mất Ổn Định Đang Được Toàn Cầu Hóa
* Sống nhờ xuất cảng là nhờ người *
Mục
“Kinh tế cũng là Chính trị” được mở ra trên cột báo này đúng năm năm trước, với
chủ đích dễ hiểu: kinh tế và chính trị là hai mặt của một đồng tiền. Từ nguyên
thủy, hơn 200 năm rồi - và trước Marx - người ta có một từ duy nhất về môn kinh
tế học, là “kinh tế chính trị học”.
Trong
một bài cuối năm, chúng ta minh diễn chuyện này để nhìn vào một chiều hướng sắp
tới.
***
Giới
kinh tế thường lý luận rằng tự do thương mại, việc buôn bán với tối thiểu hạn
chế, là điều có lợi cho mọi người và mọi quốc gia vì bên nào cũng tận dụng “lợi
thế tương đối” của ta để sản xuất và bán ra mặt hàng sở trường, nhờ đó mua vào
nhiều mặt hàng khác mà ta không có, hoặc muốn có thì tốn kém hơn. Cho nên về
dài thì ai cũng có lợi. Nhưng, như kinh tế gia thời danh của thế kỷ 20 là John
Maynard Keynes đã nói, rằng “về dài thì ai cũng chết”, nên có thể chết trước
khi thấy ra mối lợi! Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn…
Chuyện
kia là trong quan hệ mua bán, xứ nào cũng muốn bán tối đa và mua tối thiểu để bảo
vệ một số khu vực của mình khỏi bị cạnh tranh vì kém sức cạnh tranh. Mỹ, Tầu,
Anh, Đức, hay Nhật đều có khuynh hướng bất minh đó, má lại được giới chính trị
gia cho là sáng suốt và được truyền thông u tối ngợi ca. Hãy nhìn vào cuộc
tranh luận tại Hoa Kỳ về Hiệp ước TPP thì rõ.
Kinh
tế không là kinh doanh. Mà là “kinh bang tế thế”, một khái niệm Nhật Bản xuất
hiện từ thời Minh Trị Thiên Hoàng canh tân xứ sở vào cuối thế kỷ 19. Kinh tế có
“bang” có “thế”, là chính trị quốc gia rồi toàn cầu, với sự tham gia của các
chính khách, dù chưa chắc thành phần này đã hiểu rõ quy luật kinh doanh và kinh
tế trong luồng giao dịch với cả thế giới.
Từ
vài khái niệm trừu tượng ấy, xin đi vào thực tế của giao dịch giữa các nước:
ngoại thương hay xuất nhập cảng. Và xin chọn một thời điểm gần cho dễ nhớ.
***
Khi
mở tấm lịch 2008, chúng ta chưa biết kinh tế Hoa Kỳ bị suy trầm từ Tháng 12 năm
2007. Lý do dễ hiểu. Đà gia tăng sản lượng phải giảm trong hai quý liền thì mới
gọi là “suy trầm”, recession, nên ta
biết sớm lắm là sáu tháng sau. Trước đó thì chỉ có thể dự đoán. Năm đó, chúng
ta cũng chưa để ý là cuối năm 2007, một số ngân hàng Anh Pháp bị rúng động vì
các nghiệp vụ đầu tư trên thị trường Hoa Kỳ. Đến Tháng Ba 2008, khi tổ hợp đầu
tư Bear Sterns sụp đổ, ta cũng chửa hay. Mãi tới Tháng Chín thì hốt hoảng vì vụ
Lehman Brothers vỡ nợ.
Khủng
hoảng tài chánh dẫn đến nạn Tổng suy trầm 2008-2009. Toàn cầu bị suy trầm.
Tổng
suy trầm làm các nền kinh tế Âu-Mỹ xưa nay vẫn tiêu thụ nhiều đều phải tiết kiệm,
khiến các đại gia xuất cảng điêu đứng, là trường hợp Trung Quốc, nền kinh tế đã
vượt Đức và sắp bắt kịp Nhật để ngoi lên hạng nhì thế giới. Đi sau Nhật vài chục
năm, Trung Quốc vừa trám vào vị trí của một đại gia xuất cảng hàng rẻ nhờ lương
thấp để có tốc độ tăng trưởng cao. Khi tiêu thụ của thiên hạ bị giảm vì Tổng
suy trầm, nền kinh tế hướng vào xuất cảng của các đấng con trời bị sụp. Họ cố
bơm tiền để giữ đà tăng trưởng và kềm hãm thất nghiệp. Cuối cùng thì chất lên một
núi nợ sắp như đất chuồi.
Năm
2016 sẽ thấy ra hậu quả kinh hoàng của những gì manh nha từ đầu năm 2008. Mà ta
không biết! Vì ta không biết nên giới chính trị gia mới có dịp nói láo để bảo vệ
các khu vực kém sức cạnh tranh.
Bây
giờ, xin hãy lùi một chút để nhìn vào toàn cảnh.
***
Thế
giới có loại quốc gia sống nhờ xuất cảng, đo lường ở tỷ lệ xuất cảng trong Tổng
sản lượng GDP. Đứng hàng tiên tiến là Đức và Nam Hàn, với tỷ lệ gần và hơn 50%
GDP, nhưng tiên tiến vì xuất cảng mặt hàng có giá trị cao, như xe hơi hay hàng
hóa loại siêu kỹ thuật. Đứng hàng chậm tiến là Trung Quốc hay Nga, với tỷ lệ gần
25 hay 30% GDP, mà chậm tiến vì bán hàng Tầu rẻ tiền, hoặc nạn nguyên nhiên vật
liệu bị tuột giá là nỗi buồn Nga La Tư.
Trong
bối cảnh kinh tế chính trị ấy, có hai vị nữ lưu đang hốc hác là Thủ tướng
Angela Merkel của Đức và Tổng thống Phác Cận Huệ của Đại Hàn.
Kinh
tế Đức lệ thuộc vào xuất cảng nên trước tiên lệ thuộc vào sự trọn vẹn của đồng
Euro và khối Liên Âu. Vì vậy, bà Merkel chịu nhiều tổn thất chính trị từ vụ khủng
hoảng của Hy Lạp và nạn di dân Trung Đông đang gây rạn nứt cho khối Liên Âu.
Xưa nay, Đức xây dựng sức mạnh kinh tế nhờ tiết kiệm cao và xuất cảng nhiều.
Sau Thế chiến II còn tăng cường chiều hướng ấy và mong là tự do ngoại thương của
Âu Châu sẽ đem lại thịnh vượng và hòa bình cho toàn khối. Ngày nay, những yếu tố
ấy đang bị rạn nứt, tiêu hao và có thể chấm dứt.
Tuần
qua, Tổng thống Phác Cận Huệ vừa có một phiên họp khẩn cấp, với tâm lý khủng hoảng.
Kinh
tế Nam Hàn lệ thuộc vào xuất cảng đến hơn 50%, phân nửa là xuất cảng vào Trung
Quốc. Khi nền kinh tế của Tập Cận Bình bắt đầu ngáp ngáp thì ưu thế xuất cảng của
Nam Hàn bỗng khắc khoải. Vì vậy, Nam Hàn đánh giá cục diện quân sự Đông Hải
khác với các nước Đông Á. Không nên chống Tầu quá mạnh mà bể mất hũ kim chi rồi
bị biến động xã hội và chính trị ở nhà!
Từ
quan hệ Hàn-Hoa, ta còn thấy ra một chuyện nhức đầu cho năm 2016.
Trung
Quốc bị khủng hoảng kinh tế vì thế giới nhập cảng ít hơn và chê hàng Tầu. Khi kinh
tế xứ này sa sút thì các nước bán hàng cho Tầu đều bị thiệt hại, là nỗi niềm
Phác Cận Huệ. Lãnh đạo Bắc Kinh cứ mong là kinh tế Âu-Mỹ sẽ phục hồi để sẽ lại
nhập cảng hàng Trung Quốc. Lãnh đạo Nam Hàn, Úc hay các nước bán dầu tại Trung
Đông cũng mong kinh tế Hoa lục phục hồi để sẽ lại mua hàng của họ. Những chuyện
ấy không xảy ra.
Một
ngoại lệ là trường hợp Nhật Bản.
Từng
là một đại gia đầu tư rất mạnh và xuất cảng rất nhiều, nước Nhật đã được ngợi
khen – như Trung Quốc sau này – là nền kinh tế sẽ vượt Mỹ mà mua đứt tài sản của
nước Mỹ. Sau đó là bảy lần truy trầm trong 25 năm và hàng tuần thiên hạ cứ đọc
cáo phó kinh tế của Nhật. Thật ra, Nhật Bản đã đổi thay, chỉ lệ thuộc vào xuất
cảng có 16% GDP và đang ra sức nâng cao khả năng tiêu thụ nội địa. Trung Quốc
cũng muốn như vậy mà chưa xong.
Nhật
đang mở đầu một trào lưu mới, của cả thế giới, là có đà tăng trưởng thấp hơn,
nhưng khác thế giới là vẫn có ổn định xã hội ở bên trong. Đi rất sớm, Nhật Bản
sẽ tìm ra một mô hình phát triển mới để trở thành cường quốc đích thực và có ảnh
hưởng tại Đông Á.
Trong
cõi đa mang ấy, Hoa Kỳ mới là đại gia chiến lược vì chỉ xuất cảng chừng 13,5%
GDP và nhập cảng có 12% của Tổng số tiêu thụ. Là đại gia vì chẳng rơi vào cảnh
ngộ “không xuất cảng thì chết”, và chiến lược vì dù chỉ nhập có 12% số tiêu thụ
thì lại nuôi sống các nước. Nói nôm na cho dễ ghét thì thiên hạ cần Mỹ chứ Mỹ
chẳng cần ai!
Hoa
Kỳ không chỉ là siêu cường nhờ khả năng quân sự mà còn nhờ sức mạnh kinh tế là
có thể gây điêu đứng cho xứ khác. Gây điêu đứng trong đàm phán về ngoại thương
là một thí dụ.
***
Tổng
kết lại, các quốc gia sở trường về xuất cảng đang xuất cảng sự bất an. Bất an
nhất là tình hình đại lục Âu-Á, từ Âu Châu qua Liên bang Nga tới Trung Quốc. Từ
kinh tế chính trị mà nhìn ra địa hạt khác thì mâu thuẫn giữa các nước xuất cảng
và nhập cảng sẽ chi phối quan hệ quốc tế, và có thể giải thích nhiều mâu thuẫn
và khủng hoảng.
Nhưng
một số quốc gia mới nổi trong khu vực lại có hy vọng thay thế vai trò công xưởng
của Trung Quốc để sản xuất mặt hàng dệt sợi hay điện thoại cao cấp và bán cho xứ
khác. Họ cần đầu tư và kỹ thuật của Nam Hàn, Nhật Bản hay Hoa Kỳ nếu biết cải
cách cơ chế để đạt hiệu suất cao hơn. Hơn 40 năm trước, chúng ta đã thấy một lần
đổi thay như vậy, khi ấy chẳng mấy ai muốn đầu tư vào thị trường của Mao Trạch
Đông. Ngày nay, ở giữa tình trạng mất ổn định toàn cầu, các nước đang phát triển
cũng có hy vọng tương tự.
Xin thưa, VN ta lâu nay vẫn xuất cảng khế ngọt đấy chứ!, thứ hàng tự có này xịn và sang hơn nhiều..
Trả lờiXóa