Nguyễn Xuân Nghĩa - Đinh Quang Anh Thái Ngày 20110304 Chương trình "Giờ Giải Ảo" phát thanh ngày 100524 (Sau chương trình tuần trước đó về "Đi Tìm Nền Tự Chủ" đã yết trên Dainamax Magazine ngày 20110126) |
ĐQAThái: Đây là Giờ Giải Ảo với ông Nguyễn Xuân Nghĩa, phát thanh mỗi tối Thứ Ba trên băng tần 1190AM của NVR, trên mạng lưới điện toán kxmx.com và trang nhà của nhật báo Người Việt. Xin kính chào ông Nghĩa cùng quý thính giả gần xa.
Kính thưa quý thính giả, trong chương trình tuần trước vào ngày 17 tháng 5, ông Nghĩa có nói về một đề tài là khoản tài sản bằng ngoại tệ của Việt Nam Cộng Hoà vào lúc hấp hối và bị Mỹ cúp viện trợ, rồi chúng ta chuyển qua hai tiết mục mà bản thân chúng tôi thấy là rất hấp dẫn. Đó là thứ nhất vai trò của nhà ngoại giao Averell Harriman trong việc Chính quyền Kennedy lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, cũng tương tự như việc nhà ngoại gia Henry Kissinger tìm cách cột tay miền Nam dưới chính quyền Nixon. Đề tài thứ hai là chế độ viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam mà với tư cách là chuyên gia kinh tế, ông Nghĩa cho là cũng có những mặt trái rất tiêu cực. Chúng ta xin trở lại đề tài thứ hai này vì có lẽ nhiều người trong chúng ta thật ra lại rất ít biết về việc đó. Thưa ông Nghĩa, ông nghĩ sao về việc này?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chúng ta sở dĩ đề cập tới chuyện ấy trong nhu cầu giải ảo vì sau khi thấy Hoa Kỳ cột tay và bức tử miền Nam vì những tính toán dàn xếp với Trung Quốc thì nhiều người nêu vấn đề là vì sao lãnh đạo Việt Nam không tìm cách thoát khỏi sự lệ thuộc đó vào Hoa Kỳ? Sau khi thảm kịch đã xảy ra, ai ai cũng có thể nghĩ như vậy và quy trách cho lãnh đạo miền Nam, vốn dĩ cũng có những khuyết điểm và sai lầm nghiên trọng hơn Nam Hàn và Đài Loan.
- Chuyện ấy không đơn giản và còn nguy hiểm nếu ta nêu câu hỏi đó mà quên hẳn trách nhiệm và hậu quả nay đã thành mười mươi của người Cộng sản. Tôi còn ngờ rằng người ta cứ tập trung vào trách nhiệm của miền Nam hay Hoa Kỳ để chạy tội cho chế độ Hà Nội!
- Trong một thí dụ kỳ trước, khi nói về cuộc họp báo tại Paris của phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà đi thương thuyết viện trợ Pháp sau khi Hiệp định Paris được ký kết, tôi có nhắc tới nỗ lực của miền Nam là tìm nguồn viện trợ và đầu tư khác, mà nhiều người bây giờ thì chê là quá trễ. Cũng qua thí dụ này, tôi có nói đến việc cộng sản bắn vào kho xăng Nhà Bè ngay thời điểm ấy và trong cuộc họp báo, phái đoàn của miền Nam bị báo chí Pháp vặn hỏi là "quý vị nói sao về an ninh và còn kêu gọi đầu tư khi ngoại ô của Sàigon còn bị phá hoại?" Đòn phá hoại chính trị ấy của miền Bắc tất nhiên là gây khó cho miền Nam. Nhưng khi ấy, có ai nêu vấn đề về trách nhiệm phá hoại hiệp định của người cộng sản không, sau khi họ đã ký kết Hiệp định Paris?
- Thí dụ ấy còn cho thấy rất nhiều bài toán nan giải của miền Nam mà dư luận và cả truyền thông rất tự do của chúng ta không biết. Hoặc không ý thức được. Trách nhiệm về thông tin và tuyên truyền của miền Nam hiển nhiên là có, nhưng nó không thể khỏa lấp trách nhiệm của miền Bắc. Nếu nhớ lại, nghĩ lại, ta phải thấy là trong thảm kịch lớn vào lúc cuối lại có rất nhiều bi hài kịch nhỏ, nào chuyện ký giả đi ăn mày, nào phong trào phản đối chính phủ, v.v... mà sau đó tất cả đều theo nhau vào tù và bây giờ quy trách tội nặng cho ông Thiệu, cho quân đội hay cho Hoa Kỳ....
- Một thí dụ khác là vấn đề lúa gạo mà tác giả Nguyễn Tiến Hưng có viết trong cuốn "Tâm Tư Tổng Thống Thiệu" của ông.
Thái: Xin ông nhắc lại thí dụ ấy được không?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ là quý thính giả có thể tìm đọc cuốn sách này, và những người ở xa nên lên website "tamtutongthôngthieu.com" để đặt mua. Ở đây, tôi chỉ xin tóm lược là: vì chiến cuộc, miền Nam thiếu gạo và phải nhập cảng, phải trông chờ vào viện trợ Mỹ.
- Nhưng miền Nam cũng theo chế độ tự do kinh tế và dân chủ chính trị, nên không thể ban bố tình trạng gọi là khẩn cấp để tự tiện trưng thu lúa gạo hầu ưu tiên cung cấp cho các đơn vị tác chiến ở vùng hỏa tuyến khi ấy đã lan rộng và các chiến binh miền Nam đang thiếu gạo chứ chẳng thiếu có súng đạn xăng nhớt. Nếu trưng thu như vậy thì quý thính giả hãy tượng tượng ra phản ứng của báo chí và truyền thông Hoa Kỳ! Cưỡng bách các công nhân bốc rỡ gạo cũng là vi phạm quyền tự do đình công và gặp phản ứng chống đối cũng rất chính đáng của các nghiệp đoàn.
- Chính quyền khi ấy cũng chẳng thể ban hành việc trợ giá lương thực cho binh lính và gia đình có gạo rẻ vì chúng ta theo kinh tế tự do! Hạ giá lúa gạo là đánh sụt lợi tức của nông gia, hoặc ban hành quy chế trợ cấp lúa gạo cho quân đội là gây thêm bội chi ngân sách đang bị thu hẹp vì viện trợ Mỹ sút giảm. Chưa kể là khi có chế độ hai giá gạo là có tham nhũng, nhiều bà tướng sẽ mau mắn tuồn gạo rẻ cho lính bán ra cho dân với giá cao hơn! Thành thử, trong một vấn đề cực kỳ ưu tiên là lo miếng ăn và nhu yếu phẩm của thành phần ưu tú đang bảo vệ tự do cho miền Nam, tức là binh lính trong quân đội, chúng ta gặp cả bài toán chính trị và kinh tế.
- Hà Nội không gặp loại vấn đề ấy. Họ dùng mọi biện pháp thô bạo nhất để đảm bảo việc phục vụ chiến trường mà chẳng thấy ai than phiền hoặc đòi điều tra điều trần gì cả! Chúng ta mà quên loại vấn đề này thì vẫn chưa được giải ảo vì có sự khác biệt về tiêu chuẩn! Nhân chuyện ấy, tôi lại nhớ đến một cuốn sử về Trung Quốc của cụ Nguyễn Hiến Lê.
Thái: Chúng tôi ngờ là ông lại sắp giải ảo một chuyện khác nữa! Chúng tôi sẽ xin trở lại sau ít phút thông tin thương mại....
Đây là Giờ Giải Ảo của đài NVR. Xin mời ông Nghĩa tiếp tục về một cuốn sử của học giả Nguyễn Hiến Lê
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Cụ Nguyễn Hiến Lê là người rất thành thật và có công rất lớn với dân ta khi phổ biến một số kiến thức phổ thông về văn hoá và lịch sử thế giới cho người Việt mình. Tác phẩm của cụ là những kiến thức căn bản thuộc trình độ trung học rất cần thiết cho quảng đại quần chúng. Nhưng cụ cũng có những hạn chế trong tầm nhìn và cách nhìn.
- Đặc biệt là cụ rất khâm phục văn hoá và lịch sử Trung Quốc mà cụ nhìn qua cách trình bày và lý giải của các học giả Tây phương, nhất là Pháp. Như nhiều người có học và ưa trò trừu tượng, cụ có thiện cảm với lý tưởng công bằng xã hội của cánh tả và cả người cộng sản. Sau 1975 cụ mới thấy rõ hơn và có điều chỉnh đôi chút, nhưng không tinh tế và triệt để như cụ Vương Hồng Sển, là người cũng ở lại và tiếp tục viết và lách dưới chế độ cộng sản. Đọc sách cụ Sển, tôi hiểu thêm miền Nam và về cả quản lý kinh tế. Còn sách Nguyễn Hiến Lê thì thà tìm vào nguyên bản ngoại ngữ! Chuyện này hơi dài nên xin lỗi trước quý thính giả.
Thái: Xin ông cứ tự nhiên vì dường như là chuyện nào ông moi ra cũng làm thính giả giật mình và suy nghĩ thêm!
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Để giải ảo, tôi xin nhắc tới bộ Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê do nhà Xuất bản Văn Hoá của Hà Nội xuất bản năm 1997. Đây là một bộ sử khá sơ sài nhưng dù sao vẫn là cần thiết cho người Việt bình thường có thể tìm hiểu về lịch sử của một xứ láng giềng đang là vấn đề cho chúng ta.
- Trong chương VIII viết về sự thống trị của tộc Mãn Châu tại Trung Quốc, tức là nhà Mãn Thanh, tác giả có luận giải về lý do vì sao nhà Thanh lại khống chế được Trung Quốc và nhắc tới chế độ lý giáp và bảo giáp mà nhà Thanh học của nhà Nguyên của dân Mông Cồ. Cụ viết rằng, tôi xin dẫn: "Và cũng như đời Nguyên, họ bắt nhà nào có kẻ bất hiếu, biếng nhác, ăn cắp ăn trộm, chống đối triều đình thì phải ghi tên vào một cái bảng treo trước cửa". Sau đó, cụ kết luận: "Như vậy là triều đình có hàng triệu công an mật vụ mà khỏi trả lương". Đấy là một kết luận hơi sơ sài ấu trĩ dù không sai lắm và cần được liên hệ tới chế độ hộ khẩu của Thương Ưởng thời Chiến Quốc mấy ngàn năm trước. Nhưng dù sao cũng chẳng là vấn đề lớn trong một bộ sử cho cấp trung học.
- Vấn đề là ngay sau đó, cụ ghi thêm một cước chú, ở cuối trang 207 thuộc tập hai của bộ Sử, mà tôi xin đọc lại nguyên văn như sau: " Ở nước ta dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu thời trước cũng theo họ - tức là nhà Mãn Thanh - tại một quận nọ ở Châu Đốc nhà nào có người tập kết ra Bắc năm 1954 phải treo một cái đèn đỏ ở trước cửa". Tôi đọc thấy mà bàng hoàng và phải đọc lại, xem lại cuốn sử này xuất bản năm nào, tại đâu, mà viết ra chuyện ngớ ngẩn như vậy? Nếu con trẻ thời sau mà vớ vào sách này thì sẽ suy luận y như tuyên truyền của chế độ cộng sản, và chế độ Nguyễn Văn Thiệu quả là cũng có hàng triệu công an và mật vụ mà khỏi cần trả lương!
- Sự thật nó không hẳn là như thế, mà những người sinh sống tại miền Nam như các ông Trương Tấn Sang, Nguyễn Minh Triết hay Nguyễn Tấn Dũng ngày nay đều có thể xác nhận! Miền Nam có bị nhược điểm về an ninh và tình báo chính là vì từ căn bản không hề có chế độ đối đãi thiếu công bằng với các gia đình có người tập kết và hoạt động tại miền Bắc. Ngược lại, ta đều biết rằng chính chế độ Hà Nội mới canh chừng những gia đình có thân nhân di cư vào Nam, và con em các đảng viên cao cấp hoạt động trong Nam lại chịu một chế độ quản lý kỹ lưỡng hơn mà người dân ở trong Nam và cả bà con ngoài Bắc cũng không ý thức được. Và ngày nay thì sự kiện công an trị của Hà Nội đã thành hiển nhiên.
- Sau 1975, cụ Nguyễn Hiến Lê có thể không dám nói gì về chế độ công an trị đó và chúng ta có thể thông cảm hay không với một kẻ viết sử như vậy. Nhưng ta không hiểu được vì sao tác giả lại moi chuyện đèn đỏ ở một quận của Châu Đốc dưới chế độ Thiệu, xuất hiện từ 1967, để đánh dấu một gia đình có thân nhân tập kết từ năm 1954! Quý thính giả ở tại Châu Đốc ngày xưa có ai nhớ gì về chuyện này chăng? Mà tác giả nghĩ sao khi lại viết như vậy, và thế hệ sau này nghĩ sao về sự thật lịch sử của hai miền?
- Miền Nam chúng ta ngày xưa không thiếu tài liệu rất ngay tình kết án chế độ Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu mà có lẽ lại mù mờ hoặc câm nín về những gì đang xảy ra lúc đó tại miền Bắc! Ngoài việc nhìn ra bàn tay của Mỹ, ta có nên cần tự giải ảo khỏi trò dớ dẩn ấy không?
- Khi phê phán là vì sao miền Nam lại không tìm cách thoát khỏi sự lệ thuộc vào Hoa Kỳ, ta có nên phê phán luôn vì sao người Cộng sản lại đẩy cả hai miền vào chỗ tương tàn và thắng trận rồi vẫn còn xem quân dân miền Nam như kẻ thù, đất nước miền Nam như một vùng chiếm đóng? Bây giờ, khi bị Trung Quốc xiết họng thì lại muốn cộng đồng người Việt bên ngoài báo động với thế giới trong khi vẫn xiết họng người dân trong nước, không cho ai biểu tình phản đối Bắc Kinh!
Thái: Trở lại chuyện viện trợ Mỹ, ngày xưa ông là Phụ tá Tổng trưởng Tài chánh và đồng thời là Cố vấn về Ngoại viện cho Phó Thủ tướng Đặc trách Kinh tế ở Sàigòn, ông có thể trình bày khái quát một vấn đề rất chuyên môn về kinh tế để tìm hiểu vì sao mà viện trợ Mỹ lại là cái ách khó gỡ.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chủ yếu là ta có hai mạch viện trợ song hành. Một là chương trình gọi tắt là CIP, lấy kinh nghiệm từ kế hoạch Marshall của Mỹ viện trợ cho Âu Châu sau Thế chiến II. Chương trình này được áp dụng suốt hai chục năm từ 1955 đến 1975, trừ mấy tháng gián đoạn năm 1963 khi Hoa Kỳ muốn gây áp lực với chính quyền Ngô Đình Diệm. Chương trình kia là PL 480, cứ được gọi là Nông phẩm Phụng sự Hoà bình theo lối gọi từ Chính quyền Kennedy.
- Chương trình CIP, thực tế là Commercial Import Program và cũng được gọi là Commodity Import Program mà ta có thể gọi là "Chương trình Nhập cảng Thương phẩm" là việc Mỹ viện trợ cho ngân sách quốc gia Việt Nam một số ngoại tệ nhất định mà chính phủ bán lại cho doanh gia với một hối suất ưu đãi, có thể là thấp hơn thị trường, để họ nhập cảng một số hàng hóa của Mỹ. Doanh nghiệp Mỹ xuất cảng hàng hóa thì nhận đủ số đô la y như bán cho các thị trường tự do khác, còn doanh nghiệp Việt Nam thì tốn ít tiền hơn mà vẫn nhập cảng được một lượng hàng hoá cần thiết cho thị trường tiêu thụ nội địa. Tiền Việt Nam mà chính phủ Sàigon thu được từ doanh gia Việt Nam được đưa vào một quỹ đối giá để tài trợ ngân sách quốc gia trong đó có cả quốc phòng, cảnh sát hay lương công chức. Chế độ viện trợ này có nghĩa là dân ta càng tiêu thụ nhiều thì ngân sách càng có thêm tiền để đánh giặc! Có cái lô gích nào quái đản như vậy trong một cuộc chiến toàn diện kết hợp cả quân sự và chính trị hay không? Có ai liên hệ chính sách viện trợ kiểu đó với những khó khăn ngày nay của Mỹ tại A Phú Hãn và Iraq không?
- Khi tóm lược như vậy, ta thấy ngay một mâu thuẫn xương tủy về bài toán chiến tranh toàn diện do người Cộng sản đặt ra và càng thấy ra sự phi lý của giải pháp kinh tế, hối đoái và ngân sách mà nước Mỹ áp dụng trong Nam để đối phó với bài toán ấy! Và khi Mỹ cúp viện trợ thì hậu phương hết xài đồ nhập cảng từ Mỹ, do doanh nghiệp Mỹ cung cấp, và ngân sách hết lương cho lính. Trong khi ấy, đầu tư vẫn bị cản trở so với tiêu thụ và càng bị cản trở vì chiến cuộc. Chúng ta cần cả một cuốn sách chứ không chỉ một chương trình về sáng kiến kỳ diệu và kỳ lạ này của Hoa Kỳ. Đời nay mà đọc cuốn sử của Stanley Karnow về chiến tranh Việt Nam sẽ lại bị lầm lạc nữa, vì quy tội cho miền Nam về những mâu thuẫn của chương trình viện trợ! Kỳ diệu nhất là chương trình này chứng minh lập luận của phe Cộng sản, rằng Mỹ gây chiến chỉ để doanh nghiệp hay tài phiệt Mỹ bán hàng!
Thái: Đó là chương trình thứ nhất. Còn chương trình kia là gì?
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Đó là chương trình Hoa Kỳ nâng đỡ nông gia Mỹ, mua nông sản và lương thực để viện trợ cho các xứ khác, gọi đó là Nông phần Phụng sự Hoà bình. Theo chương trình này, Việt Nam nhận được một số nông sản Mỹ bán lại cho dân lấy tiền tài trợ ngân sách và lý tưởng ban đầu của Chính quyền Eisenhower là cứu đói các nước nghèo khi đạo luật PL48 này ra đời năm 1954 đã chuyển dần sang mục tiêu chiến lược trong chính trường Mỹ là giúp nông gia Mỹ có thị trường và mục tiêu chiến lược về đối ngoại là dùng viện trợ nông sản để kết nạp đồng minh.
- Nhưng quan niệm về đồng minh đó có thể dời đổi theo từng thời kỳ trong khi quốc gia thọ nhận viện trợ - do bộ Canh nông và Cơ quan USAID quản lý, tùy chương trình - thì lại xây dựng toàn bộ kế hoạch phát triển kinh tế trên chế độ viện trợ đó. Và còn bị chế độ này ràng buộc vì nông sản do Mỹ viện trợ không được chế biến thành hàng hóa có thể cạnh tranh với hàng Mỹ, trong nước nhận viện trợ hay ở các thị trường xuất cảng bên ngoài. Loại viện trợ đó cứ thu hẹp dần khả năng xoay trở của quốc gia, cho tới khi Mỹ đổi ý thì xứ nào nhận viện trợ lại bị bó tay.
- Vì vậy mà Nam Hàn và Đài Loan đã rất sớm và dứt khoát giã từ viện trợ Mỹ, nhưng họ không bị chiến tranh ngay trên lãnh thổ như miền Nam! Chúng ta sẽ còn nhiều cơ hội trở lại đề tài này, nhưng chỉ xin nhắc là vào thời đó, hầu hết mọi người đều hồ hởi với viện trợ Hoa Kỳ, xây nhà cho Mỹ thuê và hồn nhiên làm giàu trong thời chiến! Bây giờ có giải ảo thì cũng không trễ....
Ông Nghĩa hình như vẫn không nắm được vấn đề. Cái kiểu ông đỡ tội cho Thiệu cũng như cách ông gỡ gạc cho Suharto và Mubarak vậy. Hai tên này, cùng với Thiệu, là những kẻ đã để cho guồng máy chính quyền của mình tham nhũng đến độ kinh tế nước nhà không khá lên được. Tội đó muôn dân ngàn đời vẫn lên án. Đừng có mất công mà gỡ gạc cho bọn chúng.
Trả lờiXóaXin hỏi Anonymous ở trên ông Nghĩa gở tội cho ông Thiệu ở đâu và Suharto, Mubarak ở chổ nào trong bài nầy? Hình như comment của ông/bà bởi có vấn đề đối với cá nhân người viết mà ra, chứ không phải nhận định từ bài viết nầy.
Trả lờiXóaXin làm ơn comment cho có lương thiện một chút!
Anonymous 4:23 trình độ kém, tâm địa bẩn, làm bẩn cái blog này! Độc giả Sáu Quý Sóc Trăng nắm đúng chóc!
Trả lờiXóaCái cháu nào vừa còm dưới tên là Anonymous lúc 4 giờ 23 bị hai độc giả Sáu Quý và Anonymous 7:12 mắng là phải!
Trả lờiXóaThế nào là "nắm được vấn đề" khi bài viết của cụ Nghĩa đề cập đến chuyện khác mà cháu lại bẻ queo như vậy?
Và "gỡ tội" hay "gỡ gạc" có hai nghĩa hoàn toàn khác nhau. Cụ Nghĩa gỡ gạc gì trong chuyện này?
Cháu còn bé dại quá mà chạy vào đây chơi trò láu cá thì coi bộ không khá! Hay là cháu muốn chạy tội cho ai kia, những kẻ tham nhũng đang làm Việt Nam mang nhục!
Việc hạn chế đặc quyền và đặc lợi của các doanh nghiệp nhà nước trong luồng giao dịch không chỉ có lợi cho việc xuất khẩu của Mỹ mà cũng tạo ra một sân chơi bình đẳng và lành mạnh hơn cho tư doanh Việt Nam.
Trả lờiXóaÔ. Nguyễn Xuân Nghĩa
Việc hạn chế đặc quyền và đặc lợi của các còm tâng bốc tác giả trong luồng giao dịch tư tưởng không chỉ có lợi cho việc phát triển kỷ năng lý luận của độc giả mà cũng tạo ra một sân chơi bình đẳng và lành mạnh hơn cho những người còn ưu tư đến những vấn đề liên quan đến Việt Nam.
Trả lờiXóaÔ. Nguyễn Bất Bình
Tất cả mọi người quên, hay cố ý quên không biết, Miền Nam VNCH dân số thời đó là bao nhiêu, dân số phục vụ cho chiến tranh đã thu hút hết nguồn nhân lực có được của miền Nam, chưa kể con số nạn nhân hoặc thương phế binh không thể phục vụ cho kinh tế, nền kinh tế VN luôn mạnh nhất về nông nghiệp, chiến tranh từ khắp mọi nơi, từ đồng ruộng thôn quê, đồi núi thế thì làm sao phát triển kinh tế?, trong khi đó kẽ thù thì luôn soi mói phá hoại tất cả mọi ngõ ngách tứ kinh tế, chính trị. Một đất nước trong hoàn cảnh vậy có thể làm gì?, hảy tự đặt giả thuyết nếu CSVN ngày hôm nay ở trong trường hợp đó sẽ ra sao?. Nếu nói về tham nhũng gây nên mất nước thì điều này hoàn toàn không đúng, bởi CSVN ngày hôm nay tham nhũng hơn VNCH nhiều. TT Thiệu và các chiến sỹ VNCH không có tội với nhân dân miền Nam, kẽ có tội chính là Bọn CSVN phá hoại đời sống của người miền Nam.
Trả lờiXóaGiả thuyết của vị độc giả tudo4vn hình như đang là hiện thực, nhưng ở một giác độ trái ngược:
Trả lờiXóa1/ Trung Quốc đe dọa sự tồn vong của Việt Nam.
2/ Lãnh đạo Việt Nam không coi đó là ưu tiên.
3/ Vẫn chú ý đến chuyện quyền lực của đảng và quyền lợi của mình.
4/ Lại còn dùng mối nguy từ Trung Quốc làm cái thế để mặc cả với Hoa Kỳ, và làm tiền!
5/ Vì lầm tưởng rằng nước Mỹ cần ta.
6/ Trong khi ấy, tài nguyên bị phá hoại từ đầu nguồn (sông Mekong, các tỉnh ven biên miền Bắc và các dự án của Trung Quốc tại miền Trung...), bị đục khoét từ bên trong và tinh thần luân lý ngày càng hủ bại.
Một số độc giả cho rằng ông Nghĩa muốn bênh ông Thiệu hay chế độ cũ vì đọc không kỹ cả bài này lẫn rất nhiếu bài khác ông đã viết hay phát biểu ở nơi khác.
Theo như chúng tôi hiểu vì đã đọc loạt bài "giảo ảo" của tác giả, ông Nghĩa nói những chuyện này hàng tuần trên một đài ở Cali từ nhiều năm trước rồi. Một blog của Ly Toet (xacbacxangbang) còn chu đáo đăng lại ngần ấy bài cho bà con trong nước đọc.
Một số độc giả cũng quá tin tưởng vào Hoa Kỳ nên khó chịu khi thấy tác giả phê phán nước Mỹ, kể cả chính sách viện trợ của Mỹ như trong bài này. Có lẽ trong số những người đọc, ông Nghĩa là người có làm việc trong hệ thống đó với Hoa Kỳ, trước và sau năm 1975, cho nên nhận xét của ông ta có cơ sở. Quý vị nào thấy khác thì xin cứ viết bài mà bênh vực nước Mỹ. Ngoài đó quý vị có tự do mà!
Nhưng sự thật vẫn như thế này: hai chế độ Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu không là lý tưởng và chỉ tồn tại được chín năm, ngay trong thời chiến. Chế độ hiện hành thì có được khoảng thời gian dài gấp bốn, 36 năm!
Nhưng có những ai trong hai chế độ cũ đã trở thành đại gia có bạc tỷ đô la tấu tán ra ngoài? Hãy xem những người cầm đầu đã đi ra ngoài, sau 1963 hay 1975, họ sinh sống ra sao? Rất chật vật!
Có những ai trong hai chế độ ấy khi cầm quyền đã ký giấy bán nước, bán đất? Trong khi ấy, dù là gặp hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt, miền Nam thời ấy vẫn tôn trọng được luật chơi kinh tế, cho tư doanh hoạt động và chẳng khi nào bị lạm phát tới 700% như Việt Nam đã bị năm 1987 hoặc để quốc doanh vay mượn đến 4 tỷ đô la rồi vỡ nợ như vụ Vinashin.
Ông Nghĩa đã có nhiều bài nói về miền Nam, từ thời Đàng Trong cho đến sau này, quý vị đọc lại thì có thể hiểu vì sao miền Nam đó vẫn là cái đầu máy kinh tế mạnh vì người dân có cái đầu thông thoáng hơn.
Nói chuyện ngày xưa chính là để nhìn vào hiện tại và tương lai.
Ngay từ trên web cũ là Dainamax Magazine, ông Nghĩa đã để các độc giả tự do bình luận dưới dạng ẩn danh hình như là để tạo điều kiện cho những người ở trong nước có thể thoải mái và an toàn góp ý. Chúng tôi rất quý cử chỉ đó.
Nhưng đến web này là Dainamax Tribune, nhiều độc giả bên ngoài, có thể là bên Mỹ, lại thoải mái đả kích tác giả vì những chuyện riêng tư gì khác! Xin đề nghị quý vị thoải mái mở blog khác mà chơi!
Xin cám ơn ông Nghĩa đã thẳng thắn viết ra nhiều chuyện kinh tế, lịch sử và an ninh gần xa để mọi người cùng suy ngẫm. Dù có đồng ý hay không thì đấy cũng là điều tốt. Và dù rằng gọi đó là điều tốt có thể bị chê là "tâng bốc" tác giả!
Xin lỗi là đã bình luận khá dài, nhưng cũng để nói rằng tôi là Người Không Bất Bình! He he.
Cám ơn độc giả "Nặc Danh". Nên để mọi người thoải máy góp ỳ vì sẽ cho thấy tình trạng tụt hậu của dân mình - rồi lo! Nghĩa
Xóa