Hùng Tâm - Người-Việt Ngày 160302
"Hồ Sơ Người-Việt"
Tập Cận Bình Và Mối Nguy Thất
Nghiệp
* Thợ than, thở ra khói *
Suốt bảy tháng qua, tin tức kinh tế từ Trung Quốc làm các thị trường tài
chánh quốc tế sụt giá và người ta phát giác một sự thật đã chình ình trước mắt
ít ra từ hai ba năm trước: nền kinh tế hạng nhì thế giới đang đi vào chu kỳ suy
thoái sau nhiều thập niên cứ được ngợi ca là phép lạ! Nhưng từ bảy ngày giao dịch vừa qua, các thị
trường tài chánh quốc tế (cổ phiếu và trái phiếu) lại gác một bên mọi tin tức từ
Trung Quốc, dù tình hình xứ này còn tệ hơn trước: thị trường đã thấm sự thật,
thản nhiên ghi vào giá cả, rồi nhìn qua hướng khác.
Nói cho hấp dẫn, Bắc Kinh có tội bành trướng quân sự, nhưng hết là thủ
phạm của dao động tài chánh toàn cầu, từ giá dầu đến ngũ cốc hay sắt thép linh
tinh. Nền kinh tế vĩ đại ấy là… nạn nhân của chánh sách kinh tế Bắc Kinh. Hồ Sơ
Người-Việt sẽ tìm hiểu nghịch lý này.
Nạn Nhân và Thủ Phạm
Khi đà tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc bắt đầu giảm, hết là 10% một
năm như trong 30 năm kể từ 1980, chỉ còn là 8%, rồi 7% và có lẽ thấp hơn kể từ
2014, giới bình luận kinh tế Tây phương đồng thanh giải thích rằng mọi biến động
thất thường của kinh tế thế giới đều xuất phát từ Trung Quốc. Thí dụ như nạn
thương phẩm sụt giá làm cổ phiếu của các thị trường Á Châu, Âu Châu và Hoa Kỳ
rơi rụng là vì kinh tế Trung Quốc tiêu thụ ít hơn, nhập cảng ít hơn và gây ra
thất quân bình cung cầu.
Giới bình luận có hai biệt tài. Thứ nhất là mô tả và suy diễn sự thật,
thứ hai là chọn một tựa đề bắt mắt để gợi trí tò mò của mọi người. Kết quả là
thị trường chụp lấy bản tin, coi như sự thật và phản ứng theo sự thật đó. Với kết
luận: Trung Quốc là thủ phạm.
Chẳng hạn như nếu số cung vẫn tăng mà số cầu lại giảm thì giá phải sụt,
và giới sản xuất để xuất cảng bị thiệt hại nặng. Trung Quốc là thủ phạm vì nhập
cảng đủ loại thương phẩm, như dầu thô, khí đốt, than đá, sắt, thép, ngũ cốc,
v.v… và do tình trạng sản xuất thừa, bị ế ẩm, nên mua ít hơn và gây ra hiện tượng
cung mạnh hơn cầu.
Thật ra, hiện tượng thương phẩm (commodities) sụt giá đã manh nha từ đầu
năm 2008, hồi phục nhẹ trong các năm 2009-2011 rồi mới rớt mạnh từ năm 2011. Dầu
thô thì chỉ tuột giá từ cuối năm 2014. Có nhiều yếu tổ khả dĩ giải thích chiều
hướng giá cả ấy: quy luật cung cầu, hay trị giá ngoại tệ phổ biến nhất là đồng
Mỹ kim, là phản ứng của giới buôn bán thương phẩm (commodity traders) khi đoán
trước giá cả và mua vào hay bán ra để kiếm lời, v.v….
Một yếu tố quan trọng không kém là sự tính toán của các nước sản xuất
thương phẩm, nguyên nhiên vật liệu, căn cứ trên dự đoán của họ về mức cung cầu
sắp tới. Trong sự tính toán ấy, dĩ nhiên là có sức tiêu thụ của kinh tế Trung
Quốc, nhưng không chỉ có vậy. Mà sức tiêu thụ đó lại là ẩn số khó đoán vì tính
chất mơ hồ của thống kê Trung Quốc. Cho nên, nền kinh tế xứ này có liên hệ đến
những biến động về giá cả, như một thủ phạm mà cũng là nạn nhân.
Ít ai loan tin theo kiểu rắc rối ấy, cho nên đề tựa của bản tin - và sự
lười biếng của giới tiêu thụ tin tức – làm nốt phần vụ còn lại. Đó là kết luận
rằng mọi sự đều do Trung Quốc gây ra.
Sau khi nức lời ca tụng, người ta đổi giọng thành ta thán. Từ Tháng Tám
năm ngoái, khi Bắc Kinh hết che giấu nổi tình trạng nguy ngập của mình, như qua
việc can thiệp vào thị trường cổ phiếu rồi hối đoái, các thị trường quốc tế đều
té ngửa theo cùng một hướng. Bây giờ khi đã hoàn hồn, mọi người đều bảo nhau rằng
hoạn nạn kinh tế của Trung Quốc là chuyện đã xưa.
Chưa hết đâu!
Tập Cận Bình Thất Nghiệp
Hãy nói về cái đầu trước.
Sau khi lên lãnh đạo từ Đại hội Khóa 18 vào cuối năm 2012 với ấn tín Tổng
Bí thư và cầm quyền từ đầu năm 2013 trong vai trò Chủ tịch, Tập Cận Bình là người
bận rộn nhất thế giới.
Ông phải tập trung quyền lực về bộ máy cầm quyền của trung ương và tiến
vào vị trí trung tâm của trung ương đó để cải cách kinh tế và chuyển hướng phát
triển. Muốn vậy, về chính trị, ông phải dẹp mọi chướng ngại bằng kế hoạch diệt
trừ tham nhũng, tiến hành qua nhiều chiến dịch nhắm vào nhiều thành phần và cấp
bộ cao thấp khác nhau, cả dân sự lẫn quân sự. Trong khi đó, ông phải thâu tóm
quyền lực quản lý kinh tế và mặc nhiên đẩy người hữu trách qua một bên. Đó là
Lý Khắc Cường, đứng thứ hai trong Thường vụ Bộ Chính trị và giữ vai Tổng lý Quốc
vụ viện, tức là Thủ tướng.
Tuy nhiên các khó khăn dồn dập về kinh tế lẫn chính trị đã vượt khỏi dự
đoán của mọi người, kể cả người cầm đầu chế độ tập quyền nhất là Tập Cận Bình.
Khi ấy, giới quan sát chính trị mới hiểu ra một quy luật cung cầu khác:
muốn bán món hàng cải cách để củng cố quyền lực trước quá nhiều khó khăn kinh tế
thì phải bày ra một thị trường mới cho giới tiêu thụ. Thị trường ái quốc. Tổng
thống Vladimir Putin của Liên bang Nga hay Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc
mà đưa quân vào Syria hay bành trướng ra Đông Hải là để tránh cho mình nạn thất
nghiệp. Trong một chế độ tập quyền, kẻ cầm quyền độc đoán mà thất nghiệp thì
khó được yên bình vui thú điền viên. Vì vậy, kết hợp an ninh với kinh tế thì ta
thấy ra sự bất ổn của cả lục địa Âu-Á, trải dài từ Viễn Đông tới Trung Đông.
Nhưng giữa bối cảnh bấp bênh đó, chúng ta vẫn nên hiểu ra sự bất trắc của
kinh tế Trung Quốc. Kỳ này, Hồ Sơ Người-Việt xin nói về nạn thất nghiệp.
Sa Thải Hai Triệu Công Nhân
Hôm 29 Tháng Hai vừa qua, Bộ trưởng Bộ Nhân lực, Tài nguyên và Bảo vệ Xã
hội của Bắc Kinh là Doãn Úy Dân loan báo một quyết định rất lạ. Là sẽ sa thải một
triệu 800 ngàn nhân công trong hai khu vực sản xuất than thép của Trung Quốc.
Quyết định ấy rất lạ vì nhiều lẽ: 1) sẽ sa thải trong thời hạn bao lâu?
2) vì sao chỉ trong hai lãnh vực sản xuất thương phẩm là than và thép? 3) quan
trọng nhất, vì sao Bắc Kinh lại công khai nói ra chuyện ấy, với số liệu hẳn
hoi, thay vì cứ lẳng lặng thi hành như mọi khi?
Hôm sau, mùng một Tháng Ba, thông tấn xã Reuters đưa ra một tin còn lạ
hơn: theo lời tiết lộ của hai viên chức thân cận với giới lãnh đạo Bắc Kinh,
nhưng xin giấu tên, thì trong hai ba năm tới, Trung Quốc sẽ sa thải năm sáu triệu
công nhân viên trong khu vực nhà nước. Mục tiêu là để giải quyết nạn sản xuất
thừa.
Trong hệ thống chính trị xứ này, ít ai dám tiết lộ cho báo chí, nhất là
báo chí ngoại quốc – lại Tây phương nữa! – loại chi tiết nhạy cảm như vậy nếu
không được phép. Tức là Bắc Kinh hết che giấu sự thật này nữa. Có gì đó còn lạ
hơn đang xảy ra tại Trung Quốc.
Sở dĩ chúng ta nên chú ý đến sự kiện và thời điểm vì mới chỉ đầu năm
thôi, Thủ tướng Lý Khắc Cường tuyên bố trong một buổi họp của Quốc vụ viện (Hội
đồng Chính phủ) rằng hai khu vực than thép phải nâng hiệu suất và giảm phí tổn.
Chuyện ấy thì ai cũng biết sau khi Bắc Kinh bán rẻ thép dở ra thị trường và
càng làm thị trường sắt thép cùng quặng sắt sụt giá thê thảm. Nhưng khi ấy, Lý
Tổng lý không hề nói đến việc thải người. Trước đấy, cuối năm ngoái, nhiều giới
chức cao cấp của đảng đã nói là nạn sản xuất dư dôi khiến nhiều người phải “đổi
nghiệp”, là mỹ từ cộng sản dùng thay cho chữ thất nghiệp vì bị sa thải.
Thí dụ gần đây là một bản tin của Tân Hoa Xã ngày 22 Tháng Giêng, rằng một
triệu tám công nhân sẽ được “bố trí vào việc khác” sau khi chính quyền trung
ương chuẩn chi 15 tỷ (đô la) trong năm năm tới để giải quyết việc này trong ổn
định.
Thật ra, việc Bắc Kinh công khai hóa một quyết định kinh tế có hậu quả xã
hội và chính trị nghiêm trọng như vậy không là điều nghiêm trọng nhất. Vấn đề nó nằm ở chỗ khác (vì vậy, quý độc giả mới đọc trên “Hồ Sơ Người-Việt”!)
Đầu tiên, chế độ cộng sản Trung Quốc – viết gọn là Trung Cộng – có một
chủ trương bất di bất dịch là bảo đảm việc làm cho mọi người, nhất là công
nhân. “Định hướng xã hội chủ nghĩa” với màu sắc Trung Hoa của họ là nghèo đói
có nhau, chứ không để ai thất nghiệp. Thực tế kinh tế của chủ thuyết chính trị ấy
là ai cũng có việc, nhưng làm ít hay nhiều thì không đáng kể. Một cách cụ thể
thì doanh nghiệp là trung tâm tuyển dụng nhân lực, bất kể lời lỗ.
Chỉ 15 năm sau khi cải cách kinh tế từ 1979, lãnh đạo đã bị thực tế kinh
tế đẩy ra một bài toán nhân dụng: phải cải tổ hệ thống quốc doanh kém hiệu năng
và trong bảy năm, từ 1995 đến 2002, họ sa thải 35 triệu công nhân viên của các
doanh nghiệp nhà nước. Kết quả của việc chấn chỉnh ấy là số nhân công trong khu
vực nhà nước đã tùy nơi tùy ngành giảm từ 30% đến 60%. Nhưng khi ấy, kế hoạch chấn chỉnh do Tổng
lý Chu Dung Cơ tiến hành mang tính chất chủ động, góp phần nâng hiệu năng của
doanh nghiệp nhà nước và được tư doanh tiếp nhận lượng người dư dôi đó. Khi ấy,
phí tổn tài chánh của quyết định này được ước lượng là 11 tỷ đô la.
Ngày nay, Bắc Kinh dự trù 15 tỷ cho việc di dời việc làm của chưa tới
hai triệu công nhân chỉ trong hai ngành than thép. Khi đọc lại, ta mới thấy một
sự khác biệt rợn người:
Bắc Kinh hết khả năng chủ động như 20 năm trước, phải lật đật giải quyết
một vấn đề tốn kém gấp bội về kinh tế lẫn xã hội. Chế độ đang gặp một thách đố
chính trị nguy ngập tới bất ngờ nên mới ra lệnh cho doanh nghiệp nhà nước phải tuyển
dụng bộ đội phục viên trong khi loay hoay với hai triệu công nhân than thép,
sau khi đã sa thải một triệu rưởi kể từ năm 2013!
Các thị trường tài chánh có thể thản nhiên với con số thất nghiệp ít ỏi
đó so với lực lượng lao động Trung Quốc có hơn 800 triệu người. Bắc Kinh thì
không thể thản nhiên, vì chế độ thành hình từ những kẻ khốn cùng đi chân đất -
và chẳng còn gì để mất khi thiểu số lại phất phơ với bạc tỷ….
___
Kết luận ở đây là gì?
Ta dễ oán Bắc Kinh lấy xáng thổi
cát ẩm – có khi của Việt Nam, dạ, vâng – để xây đảo nhân tạo trên các quần đảo
họ cướp của thiên hạ. Nhưng hãy nhìn vào các doanh nghiệp ế ẩm và đoàn người ế
việc ở bên trong.
Thưa không, Bắc kinh đã thấy trước bất ổn kinh tế sẽ dẫn đến động loạn xã hội, là điều không tránh khỏi nên họ Tập đã chủ động "tạo bất ổn có kiểm soát" bằng cách tuyên bố trước và rộng rãi. Chuyện này kết hợp với "thị trường ái quốc" như đã nói ở trên thì e rằng họ Tập đã chắc chắn và sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh (vâng, ít nhất là một, hoặc Hoa Đông hoặc biển Đông) cũng là cuộc chiến trong tầm kiểm soát của họ (tức là đã sắp sẵn ai sẽ đi thương lượng với Hoa kỳ). Nguy lắm thay.
Trả lờiXóa